Text Box: số 11  CN 04. 12. 2005

Text Box: TIN VUI

 

 


 

Ngày 04/12/2005 CN II MÙA VỌNG NĂM B   TIẾNG GỌI TRONG SA MẠC.

LÁ THƯ MỤC TỬ MÙA VỌNG 2005.

ĐỪNG CHÙNG XUỐNG!

THÁNH LỄ TRUYỀN CHỨC LINH MỤC TẠI HÀ NỘI

Ðức Thánh Cha Benedictô XVI bổ nhiệm Cha Phêrô Nguyễn văn Ðệ, SDB, làm Giám mục phụ tá giáo phận Bùi Chu.

Lễ Thánh Phanxicô Xaviê (3/12)

PHÁ THAI – TỘI ÁC TÀY TRỜI

Hội Thánh nói gì về những trẻ em chết mà vẫn chưa được rửa tội?.

ĐÀN ÔNG XÂY NHÀ, ĐÀN BÀ XÂY TỔ ẤM…..

Cùng Nhau Hiểu Sống Và Chia sẻ Lời Chúa.

GIỌT NƯỚC  MẮT HỒNG..

 

Text Box: SỐNG LỜI CHÚA

 

 

 

Ngày 04/12/2005
CN II MÙA VỌNG NĂM B

TIẾNG GỌI TRONG SA MẠC

Bài Tin Mừng: Mc 1,1-8

SỐNG LỜI CHÚA

“Có tiếng người hô trong sa mạc:

Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, 

sửa lối cho thẳng để Người đi”

(Is 40,3)

Tiếng gọi trong sa mạc có một tầm quan trọng rất lớn trong Thánh Kinh, Cựu ước cũng như Tân ước. Thiên Chúa muốn nói với dân Người trong sa mạc, Thiên Chúa muốn gọi những kẻ Người yêu thương vào sa mạc để tâm sự, đồng thời Thiên Chúa cũng muốn dùng sa mạc để cảm hóa huấn luyện những ai Người muốn chọn làm thần dân của Người. Trong tinh thần bài Tin Mừng hôm nay chúng ta cùng lắng nghe những tiếng gọi trong sa mạc cuộc đời, sa mạc của mỗi người chúng ta, những sa mạc đã nở hoa cho đời cho người được tràn đầy niềm vui và hạnh phúc.

Sa mạc trong cuộc đời

Đọc Thánh Kinh, đôi khi chúng ta thắc mắc tại sao dân Israel phải trải qua 40 năm lang thang trong sa mạc rồi mới được vào đất hứa. Vấn nạn này đã được các nhà chú giải Thánh Kinh giải thích rằng: Vì chính trong tình trạng khô cằn, hoang vắng, đói khát, bất lực trong sa mạc, họ đã biết sống phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa là điểm tựa, sức mạnh và nguồn ơn cứu độ duy nhất của họ. Tiên tri Giêrêmia đã nói: Tất cả những ai được cứu thoát khỏi lưỡi gươm xét xử của Thiên Chúa sẽ nhận ra hồng ân vô biên của Thiên Chúa trong sa mạc của cuộc đời họ (Gr 31,2).
Tân ước cũng cho chúng ta thấy hình ảnh của Chúa Giêsu trong sa mạc cầu nguyện, nhịn đói và chịu cám dỗ trước khi Người bắt đầu sứ vụ rao giảng công khai về Nước Trời. Như thế, phải chăng, tất cả những ai muốn được gần Thiên Chúa, lắng nghe lời Người hướng dẫn bảo ban của Thiên Chúa đều cần có thời gian “sa mạc” cách này hay cách khác trong các giai đoạn khác nhau của cuộc đời.

Sa mạc của mỗi người

Sa mạc của mỗi người chúng ta có thể là những giây phút thinh lặng cầu nguyện, tĩnh tâm. Khi đó chúng ta ngưng tất cả mọi lo toan trần thế, gia đình hay bản thân để chỉ chiêm ngắm nhan thánh hiền hậu và lắng nghe tiếng gọi của Thiên Chúa cứu độ là Cha yêu thương, luôn tha thứ và phục hồi phẩm giá cho chúng ta.

Sa mạc của mỗi người chúng ta có thể là những thời gian bị đau yếu trên giường bệnh ở gia đình hay trong bệnh viện. Khi đó chúng ta nhận ra thân phận mong manh, bất lực của chính mình và lắng nghe tiếng gọi khuyên dạy chúng ta điều chỉnh lối sống, qui hướng tất cả tâm tư, nguyện vọng, sức khỏe, khả năng còn lại để tìm cầu Nước Thiên Chúa và tôn vinh danh Người.
Sa mạc của chúng ta có thể là những lúc thất bại, khổ đau trong cuộc sống, những lúc bị hiểu lầm, cô đơn … Khi đó, hơn lúc nào hết, chúng ta cần được cảm thông, chữa lành và hướng dẫn. Chúng ta hãy tĩnh thức nhận ra tiếng gọi rất thầm lặng trong nội tâm, mời gọi chúng ta tìm sự giải thoát đích thực nơi Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Độ đến để đem bình an cho những người thiện tâm.

Sa mạc nở hoa

Xưa ông Gio-an Tẩy Giả đã xuất hiện trong sa mạc, rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa sám hối để được ơn tha tội. Và nhờ đó sa mạc đã nở hoa cho tất cả những ai thành tâm đón nhận Chúa Giêsu là nguồn sống cứu độ. Ngày nay trong phụng vụ Mùa Vọng, Giáo Hội cũng mời gọi chúng ta lắng nghe tiếng gọi trong sa mạc của lòng mình, đối diện với chính mình, thấy rõ con người thật của mình với những giới hạn và tội lỗi. Để rồi trong vực thẳm thống hối khát mong, chúng ta nhận ra Chúa Giêsu đang hiện diện giữa chúng ta và làm cho sa mạc cuộc đời chúng ta nở hoa cứu độ. Vì Người là vị Thiên Chúa đang đi tìm những gì đã hư mất và tình thương của Thiên Chúa luôn vượt xa hơn tội lỗi của chúng ta.

Hướng về lễ Giáng Sinh, nếu chúng ta luôn nghĩ tới Chúa Giêsu và ưu tiên đặt Người trước nhất trong mọi bận tâm của bản thân, gia đình và cộng đồng của chúng ta, thì tất cả mọi sa mạc tội lụy của chúng ta sẽ dần dần được biến đổi, một dòng sông ân sủng sẽ tuôn chẩy đem lại sức sống mới cho tất cả mọi sinh vật. Điều quan trọng là tất cả mọi người chúng ta cần biết vào sa mạc để cầu nguyện vì chỉ trong thinh lặng chúng ta mới biết rõ mình là ai và Thiên Chúa là ai. Hy vọng, trong kinh nguyện gia đình, chúng ta không chỉ ca tụng Chúa bằng lời kinh tiếng hát, nhưng cần có những giây phút thinh lặng để lắng nghe lời Chúa nói trong tâm hồn chúng ta, lời yêu thương ban bình an và ơn tha thứ cho tất cả những ai ý thức đón nhận.

Nữ tu Têrêsa Phạm Thị Oanh

Dòng Đaminh Tam Hiệp

Text Box: MÙA VỌNG 2005

 

 

 

LÁ THƯ MỤC TỬ MÙA VỌNG 2005

CỦA ĐỨC HỒNG Y GIOAN BAOTIXITA PHẠM MINH MẪN

 

Kính  gửi : Anh em linh mục

Anh chị em tu sĩ và giáo dân

thuộc giáo phận thành phố Hồ Chí Minh.

1.                  Năm Thánh Thể đã kết thúc với đỉnh cao là Thượng Hội Đồng Giám mục thế giới nhóm họp tại Rôma từ ngày 02- 23.10. 2005. Nhìn lại Năm Thánh Thể vừa qua, tôi vui mừng tạ ơn Chúa vì những kết qủa đáng khích lệ Chúa đã ban cho gia đình giáo phận chúng ta. Nhiều điểm chầu Thánh Thể liên tục hoặc hàng tuần đã được thiết lập và anh chị em tín hữu đã đáp ứng rất nhiệt tình. Lòng yêu mến và tôn sùng Chúa Giêsu Thánh Thể đã gia tăng đáng kể, và đem lại những hoa trái thiêng liêng phong phúcho đời sống của nhiều người, nhiều gia đình, nhiều giáo xứ. Ước mong rằng lòng yêu mến này sẽ không chỉ dừng lại trong Năm Thánh Thể nhưng còn được tiếp tục duy trì và phát triển, để Thánh Thể thật sự trở nên suối nguồn và chóp đỉnh của đời sống Kitô hữu

2.                  Tiếp nối Năm Thánh Thể, Hội Đồng Giám mục Việt Nam đã gửi đến anh chị em Thư Mục Vụ 2005  với chủ đề Sống Lời Chúa, mời gọi chúng ta sống Năm Phụng vụ 2006 như năm Tôn Vinh Lời Chúa. Vì yêu thương, Thiên Chúa đã ngỏ lời với nhân loại để họ được thông phần sự sống và hạnh phúc viên mãn của Ngài. Thiên Chúa đã ngỏ lời với con người qua nhiều nẻo đường và bằng nhiều phương cách khác nhau, cách riêng qua lịch sử Israel, cũng là lịch sử cứu độ. Cuối cùng “vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử”  ( Dt 1, 2a) Đức Kitô chính là Lời của Thiên Chúa.  Vì thế, trọn cuộc đời Chúa Kitô - từ khi nhập thể trong lòng Đức Trinh Nữ Maria cho đến cuộc khổ nạn và phục sinh vinh hiển của Người – là mạc khải cho chúng ta thấy đâu là ý nghĩa và cùng đích của đời sống  làm người.

3.                  Lời mạc khải đó được ghi lại trong Thánh Kinh. Do đó, “không biết Thánh Kinh là không biết Đức Kitô”  ( thánh Giêrônimô). Cũng vì thế, trong năm Tôn Vinh Lời Chúa 2006 này,mỗi gia đình Công Giáo trong giáo phận nên có trong tay quyển Thánh Kinh, ít ra là sách Tân Ước. Tôi tha thiết xin anh chị em đọc và cầu nguyện với Thánh Kinh hằng ngày theo gương Đức Mẹ Maria là Đấng ghi nhớ Lời Chúa và hằng suy đi nghĩ lại trong lòng (x Lc 2, 19, 31).

Nhằm mục đích giúp anh chị em đọc, suy niệm, và cầu nguyện với Thánh Kinh, tôi đã trao cho một nhóm linh mục trách nhiệm soạn thảo các bài Tin Mừng hằng ngày cùng với những gợi ý suy niệm và cầu nguyện. Ước mong tập sách  “ Sống Lời Chúa hằng ngày”  này sớm được hoàn thành và được anh chị em đón nhận như người bạn đồng hành trong đời sống đức tin. Tôi khuyến khích anh chị em, nếu có thể, nên hình thành những nhóm chia sẻ Lời Chúa dưới sự hướng dẫn của các linh mục quản xứ. Khi cùng nhau  chia sẻ Lời Chúa, chúng ta lắng nghe và chia sẻ cho nhau chính kinh nghiệm sống đức tin của mình. Nhờ đó Lời Chúa được liên kết với thực tế đời sống của mỗi cá nhân, mỗi gia đình, mỗi khu xóm, và thật sự trở nên ánh sáng soi đưởng cho chúng ta mỗi ngày tiếp cận hơn với nguồn sống mới  là chính Chúa Kitô.

4.                  Thiên Chúa ngỏ lời với con người để cứu độ họ, và Thiên Chúa muốn cứu độ tất cả mọi người, không trừ ai. Do đó, Lời Chúa cần được và thông truyền cho mọi người. Đây là trách nhiệm  của tất cả những ai xưng mình là Kitô hữu, cách riêng của các linh mục như Giáo hội dạy : “Dân Thiên Chúa được quy tụ trước hết là nhờ Lời Chúa Thiên Chúa hằng sống. Lời này phải được đặc biệt tìm thấy nơi môi miệng các linh mục…Vì thế, các linh mục mắc nợ với mọi người về việc thông truyền cho họ chân lý. Phúc Âm các ngài đã lãnh nhận nơi Chúa ( Sắc lệnh về Đời sống và Thừa tác vụ Linh mục, số 1) Do đó, chúng ta cần cầu nguyện nhiều cho các linh mục và chân thành cộng tác với các ngài để các ngài có thể trung thành và cần mẫn chu toàn nhiệm vụ cao quý này.

5.                  Hơn ai hết, chính anh chị em là những người ý thức sâu sắc về tầm quan trọng của công cuộc đào tạo linh mục, và anh chị em đã đóng góp cách nhiệt thành và quảng đại cho công việc này trong nhiều năm qua. Dù vậy, những nhu cầu như tôi đã nêu lên đòi hỏi tất cả chúng ta còn phải nỗ lực hơn nữa. Chính vì thế, trong suốt Mùa Vọng này, tôi tha thiết xin mỗi người, mỗi gia đình tự nguyện giảm bớt một phần chi tiêu để giúp cho công trình trùng tu cơ sở Đại chủng viện. Chắc chắn đây sẽ là một món quà thật ý nghĩa anh chị em dâng cho Chúa Giêsu Hài Đồng trong đêm Giáng sinh. Đó cũng là sự góp phần cụ thể của anh chị em vào sứ mạng chung của Giáo hội, và sẽ là kho tàng còn mãi mãi cho anh chị em ( x Mt 6, 20)

Nhờ lời chuyển cầu của Đức Maria và Thánh Cả Giuse, nguyện xin ơn bình an của Chúa Giêsu Hài Đồng hằng bao phủ mỗi người, mỗi gia đình và mỗi cộng đoàn trong giáo phận chúng ta

Gioan B. Phạm Minh Mẫn

Hồng y Tổng Giám mục.

 

 

ĐỪNG CHÙNG XUỐNG!

Hãy tỉnh thức! Hãy sẵn sàng! Đừng ngủ mê! Đừng chè chén say sưa, đừng mê mải sự đời mà quên đi ngày Chúa đến! ... Bao nhiêu lời kêu gọi hay cảnh giác của phụng vụ nói lên một nét cốt yếu của tinh thần Mùa Vọng.

Sống là vươn tới

Kinh nghiệm tâm lý cho ta thấy rằng sống là hướng tới, là chờ mong, là hy vọng. Ai không còn gì để chờ, để đợi, để ước, để hy vọng nữa thì kể như đã chết rồi. Đời họ coi như không còn ý nghĩa gì nữa. Trong thực tế, ta luôn luôn có những mục tiêu nho nhỏ và gần kề để đạt tới; đạt rồi, ta lại có những mục tiêu khác, và cứ như vậy trọn cuộc đời. Nhưng điều cốt yếu là các mục tiêu nhỏ, gần phải phục vụ cho một hay nhiều mục tiêu lớn hơn nào đó, và cuối cùng tất cả mọi mục tiêu đều phải qui về một mục tiêu lớn nhất, một mục tiêu cuối cùng, một mục tiêu mang lại ý nghĩa cho toàn bộ cuộc đời chúng ta. Chính mục tiêu tối hậu này mang lại động lực căn bản và tính thống nhất cho cuộc đời con người. Đạt được nhiều mục tiêu "giai đoạn" (cho dù là tốt) nhưng thiếu mục tiêu có giá trị quyết định, cuối cùng, thì rồi cũng chẳng tới đâu!

Đời sống Kitô hữu cũng hoàn toàn như vậy. Đời sống của Giáo Hội cũng như đời sống của mỗi người môn đệ Chúa Kitô nằm căng giữa hai biến cố: là cuộc giáng thế của Chúa lần thứ nhất và cuộc giáng lâm của Người lần thứ hai lúc cùng tận của lịch sử. Mùa Vọng nhắc nhở ta điều thiết yếu đó. Hồng y John Newman viết: "Trong nền tu đức Mùa Vọng, Đức Kitô xuất hiện như một người đã có mặt đó rồi và đồng thời vẫn không ngừng được chờ mong. Và người Kitô hữu sống nền tu đức này là một con người chờ đợi Đức Kitô. " Vậy chờ mong, hy vọng là thái độ cốt yếu, căn bản, thường xuyên của người tin Chúa. Không phải chỉ trong vòng bốn năm tuần trước lễ Giáng sinh. Chúng ta có một mục đích cuối cùng hết sức rõ ràng. Chúa Giêsu ở cuối đường ta đi, Người mang tới cho đời ta ý nghĩa chung cuộc, và đồng thời Người cũng đang tiến đến đ1on gặp ta trong từng giây phút, từng cảnh ngộ ... của cuộc đời. Ở đời, người ta mong chờ mà thường thường với nỗi thấp thỏm, lo sợ vì ta thường bị hụt hẫng, bị lừa dối v. v. Còn người Kitô hữu chờ mong mà luôn vui tươi, bình an, cởi mở.

Sống bằng chờ mong và hy vọng căng ta ra phía trước. Bởi thế, tôi xin dùng một cách nói khác để tóm tắt những lời cảnh cáo của Mùa Vọng: Đừng chùng xuống!

Vài kinh nghiệm

Ta biết thế nào là "chùng xuống". Kinh nghiệm người xem một trận bóng đá. Đầu trận, các cổ động viên của đội bóng tràn trề hy vọng, họ hò hét, họ vỗ tay, nhiều khi ca hát, hô khẩu hiệu, đánh trống, bóp còi... Họ căng ra chờ một may mắn có thể đến (và đối với họ lúc đầu là nhất thiết phải xảy ra). Nhưng giả sử đội của họ bị dẫn bàn trước, họ đã bớt náo nhiệt đi một phần, nhưng dù sao hy vọng vẫn chưa hết. Giả sử hai phần ba giờ thi đấu đã trôi qua mà đội của họ vẫn chưa thắng được bàn nào, thì sao? Họ chùng xuống rõ ràng, không hò hét, không kèn trống như trước nữa..., hy vọng của họ tan dần, có người đã bỏ về trước, cho đến khi tiếng còi tan trận cất lên thì hy vọng nhường chỗ cho thất vọng.

Một kinh nghiệm lịch sử. Năm 2005 này, hầu hết--nếu không phải là tất cả các giáo xứ gốc địa phận Vinh tại miền Nam mừng kỷ niệm 50 năm thành lập. Chúng ta còn nhớ: những năm đầu, bà con các nơi mới định cư ấy vừa xây dựng cuộc sống mới vừa hướng về quê cũ, hướng về nơi chôn nhau cắt rốn, nơi họ còn mồ mả cha ông và rất đông bà con ruột thịt còn sống, và họ vẫn chờ một ngày đoàn tụ. Nhưng rồi thời gian cứ trôi qua mà "ngày về" càng ngày càng trở nên mù mịt, những tâm tình, những kỷ niệm về quê cũ cũng phai nhạt dần, niềm hy vọng đoàn tụ chùng xuống, cho đến lúc nào đó tất cả chỉ còn là "chuyện ngày xưa". Bây giờ họ sống và làm việc như chỉ còn một quê nữa mà thôi: chốn quê trước kia là quê mới bây giờ trở thành quê "cũ", quê duy nhất.

Lịch sử Giáo Hội cũng đã từng trải qua kinh nghiệm tâm lý và tinh thần tương tự. Các Kitô hữu tiên khởi nao nức phấn khởi sống hướng về ngày Chúa đến mà nhiều người nghĩ là sắp xảy ra ngay trong cuộc đời họ. Niềm hy vọng đó chi phối toàn bộ cuộc sống của họ, nói chung là tích cực. Cộng đoàn Giê-ru-sa-lem thời đầu là một bằng chứng, đó là một "sáng tạo" kỳ diệu của niềm hy vọng Kitô giáo. Đề tài Chúa quang lâm là một đề tài khá quan trọng trong giáo huấn của các tông đồ. Vào khoảng cuối thập niên 50 (thế kỷ thứ nhất), thánh Phao-lô vẫn khuyên các tín hữu Ro-ma: "Anh em biết chúng ta đang sống trong thời nào. Đã đến lúc anh em phải thức dậy, vì hiện nay Thiên Chúa cứu độ chúng ta đã gần hơn trước kia, khi chúng ta mới tin đạo. Đêm sắp tàn ngày gần đến. Chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Đức Kitô" (Rm 13, 11-13). Chúa trở lại là điều chắc chắn, niềm hy vọng Chúa quang lâm là có cơ sở. Nhưng với thời gian, nhiều người bắt đầu hoang mang và mất kiên nhẫn, khiến thánh Phê-rô phải giải thích: "Xin anh em đừng quên: đối với Chúa, một ngày ví thể ngàn năm, ngàn năm cũng tựa một ngày. Chúa không chậm trễ thực hiện lời hứa, như có kẻ cho là Người chậm trễ. Kỳ thực, Người nhẫn nại với anh em, vì Người không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người đi tới chỗ ăn năn hối cải. Nhưng ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm" (2 Pr 3, 8-10). Thánh Gia-cô-bê cũng đề cập tới tình hình này: "Xin anh em cứ kiên nhẫn cho tới ngày Chúa quang lâm. Kìa xem nhà nông, họ kiên nhẫn chờ đợi cho đất trổ sinh hoa màu quý giá..." (Gc 5, 7).

Hãy giữ vững hai đầu dây!

Như trên đã nói, đời sống Kitô hữu thiết yếu căng về phía trước bởi một niềm hy vọng đặt cơ sở trên chính lời Chúa hứa và được củng cố bởi một biến cố lịch sử đã qua, là cuộc giáng lâm lần thứ nhất của Chúa cùng với cái chết và sự phục sinh của Người. Tình cảnh Kitô hữu không dễ dàng: họ không được chùng xuống, nhưng luôn phải hướng về mục tiêu cuối cùng, phải để cho mục tiêu ấy điều động cuộc sống hiện tại của mình, nhưng đàng khác họ lại không được vì hướng về đó mà lơ là với hiện tại, với cuộc sống tại thế, với xã hội và lịch sử mình đang tham gia. Vừa nhập thế, vừa xuất thế, khó thật! Nhiều Kitô hữu xưa cũng như nay và mọi thời không chịu đựng nổi hai đòi hỏi có vẻ mâu thuẫn này. Họ ở giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian. Họ có quê hương ở đây nhưng quê hương thật lại ở trên trời. Họ phải dấn thân vào đời nhưng không để cho đời trói buộc. Nói đừng chùng lại, có nghĩa là phải nắm vững cả hai đầu dây, đừng chọn một bỏ một cho dù đó là cám dỗ thường xuyên mà người Kitô hữu phải đối đầu. Thật ra thì đa số chúng ta vẫn thường thích dấn vào hiện tại hơn, dành ưu tiên -không phải trong lý thuyết nhưng trong thực tế- cho cuộc sống trần gian hơn. Một trong những mục đích của mùa Vọng là tăng cường ý thức của chúng ta về thân phận rất đặc biệt của mình để củng cố niềm hy vọng cánh chung và mời gọi ta sắp xếp lại mọi sự cho ăn khớp với cùng đích cuối cùng của cuộc đời. Vì thế tôi nhận thấy rằng phụng vụ thánh lễ mùa Vọng lặp đi lặp lại nhiều lần hai lời nguyện sau đây: "Lạy Chúa, Chúa đã dùng bí tích Thánh Thể để dạy chúng con là những kẻ lữ hành dưới thế biết mến yêu và gắn bó với những thục tại bền vững trên trời". "Lạy Chúa, Chúa đã cho chúng con được tham dự vào mầu nhiệm thánh? Giờ đây xin Chúa thương dạy dỗ để chúng con hằng khôn ngoan sáng suốt cân nhắc những thục tại trần gian và luôn thiết tha với những thực tại bền vững trên trời".

Vừa nhập thế vừa xuất thế: khó thật nhưng không phải là không thể được vì chính Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Thiên Chúa nhập thể và phục sinh đã nêu gương cho ta, và Người vẫn ở với ta để ban ơn giúp sức cho ta.

28/11/2005

Lm Nguyễn Hồng Giáo, dòng Phanxicô

 

Text Box: HIỆP THÔNG GIÁO HỘI

 

 

 

THÁNH LỄ TRUYỀN CHỨC LINH MỤC TẠI HÀ NỘI

29.11.2005. Đúng 9 giờ, Thánh lễ truyền chức linh mục mới chính thức bắt đầu. Vậy mà, ngay từ chiều tối hôm trước, nhiều giáo dân đã khăn gói quả mướp vượt những chặng đường xa tới tham dự. Họ đã vui vẻ tự chọn cho mình một đêm ngủ trong cảnh 'màn trời chiếu đất', theo đúng nghĩa đen của cụm từ này. Lúc 5 giờ sáng, khi trời còn rất tối, ban trật tự bắt đầu làm việc, thì cũng là lúc những người tham dự đầu tiên đã chọn ngồi bệt ngay trên nền đường những tuyến phố xung quanh quảng trường Nhà thờ Chính tòa Hà Nội. Chúng ta không thể không cảm phục sự nhẫn nại, hi sinh ngồi liền 7 giờ đồng hồ để tham dự Thánh lễ của những tín hữu này. Cũng ngay từ 5 giờ sáng, Đức Tổng Giám mục Giuse Ngô Quang Kiệt và Cha Giám Đốc Đại Chủng viện Thánh Giuse Hà Nội Laurensô Chu Văn Minh đã ra chào thăm, động viên giáo dân tới sớm. Ngoài hàng chục ngàn tín hữu Công giáo, chúng tôi còn thấy nhiều đoàn đại biểu ngoài Công giáo tới tham dự. Thêm vào đó, có hàng chục phóng viên báo chí, truyền thanh, truyền hình trong và ngoài nước cũng đã tới đưa tin về Thánh lễ. Ngoài Nhà thờ Chính tòa, khuôn viên Tòa Tổng Giám mục, Đại Chủng viện, thì các tuyến đường phố Ấu Triệu, Nhà Thờ, Nhà Chung, Lý Quốc Sư và Hàng Trống cũng đã trở thành những nơi cho tín hữu tham dự Thánh lễ.

Phần hiệp lễ, các tân linh mục đã đi khắp các khu vực quảng trường trao ban Mình Thánh cho tín hữu. Cũng không kém phần cảm động và vinh dự khi Đức Hồng Y Crescenzio Sepe tự mình trao ban Mình Thánh cho các ông cố bà cố của các tân linh mục.

Sau đó, Đức Tổng Giám mục Giuse Ngô Quang Kiệt, thay mặt tòan thể dân Chúa, cảm ơn Đức Hồng Y và Đức ông Barnabê Nguyễn văn Phương đã viếng thăm Giáo hội Việt Nam - một chuyến viếng thăm lịch sử. Đức Tổng Giám mục nói: Đây là dịp để Giáo hội Công giáo Việt Nam có cơ hội khơi lên niềm tin yêu và hi vọng; hàng chục ngàn tín hữu đã về đây qui tụ bên vị cha hiền yêu dấu. Đức Tổng Giám mục bày tỏ niềm vui mừng vì được ở trong Giáo hội phổ quát và hiệp thông diệu kì - một Giáo hội mà mọi người đều chung nhịp đập của con tim; vui vì là người Việt Nam - một dân tộc luôn được Tòa Thánh yêu thương, chuyến viếng thăm này là bằng chứng sống động về tình thương ấy. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói: "Việt Nam ở trong trái tim của tôi". Trong Thánh lễ hôm nay, Đức Hồng Y không chỉ truyền chức linh mục cho 57 Thày Phó tế, mà còn gieo niềm vui và hi vọng vào tâm hồn mọi người. Chúng con xin Đức Hồng Y chuyển tới Đức Thánh Cha niềm tin yêu, tôn kính, vâng ohục của chúng con. Chúng con mong ước một ngày không xa, Đức Thánh Cha sẽ viếng thăm đất nước chúng con. Kính chúc Đức Hồng Y và Đức Ông dồi dào ơn Chúa; chúng con ước mong chuyến đi lần này thu được nhiều kết quả tốt đẹp và mối quan hệ giữa Tòa Thánh và Chính Phủ Việt Nam sẽ tiến triển tốt đẹp. Kính thưa Đức Hồng Y, chúng con yêu mến Ngài.

Trong lời đáp từ, Đức Hồng Y nói sẽ không bao giờ quên Thánh lễ truyền chức linh mục long trọng này; các linh mục trẻ sẽ làm tươi trẻ Giáo hội Việt Nam. Chính ngài luôn yêu mến Việt Nam. Trong niềm vui , Đức Hồng Y đã vui mừng công bố Giáo phận Bùi Chu có Đức cha Phụ tá do Tòa Thánh chính thức bổ nhiệm hôm nay: cha Phêrô Nguyễn Văn Đệ, dòng Donbosco, hiện đang là Cha Giáo sư giảng dạy tại Đại Chủng viện Thánh Giuse Hà Nội. Toàn thể cộng đòan dân Chúa hết sức mừng vui, vỗ tay vang dội.

Cuối lễ, Đức Hồng Y ban phép lành Tòa Thánh cho cộng đoàn hiện diện và cho toàn thể đất nước Việt Nam.

Sau Thánh lễ, Đức Hồng Y và các Giám mục chụp ảnh lưu niệm với các tân linh mục. Và rồi, rất nhiều thân nhân, ân nhân, bạn hữu đon đả tiến lên lễ đài chúc mừng, chụp ảnh và tặng quà các tân linh mục.

Cảm tạ Thiên Chúa đã ban một hồng ân qua đỗi lớn lao cho Giáo hội Công giáo Việt Nam: Một tân Giám mục và 57 tân linh mục. Tin rằng, với tấm lòng phục vụ yêu thương tha thiết, các tân mục tử sẽ làm cho vườn hoa Giáo hội thật tươi thắm và ngát hương. Ước mong cho đời linh mục dâng hiến của họ luôn có niềm vui như một lễ truyền chức kéo dài. và chúng tôi cũng xin mượn lời Mẹ Têrêxa để gửi gắm các tân linh mục: Các cha hãy luôn dâng lễ sốt sắng như Thánh lễ mở tay, như Thánh lễ duy nhất và như Thánh lễ cuối cùng trong đời.

Đại Chủng Viện Hà Nội

Ðức Thánh Cha Benedictô XVI bổ nhiệm Cha Phêrô Nguyễn văn Ðệ, SDB, làm Giám mục phụ tá giáo phận Bùi Chu.

 

Tin Vatican (29/11/2005)  - Ngày 29/11/2005, Ðức Thánh Cha Benedictô XVI đã bổ nhiệm Cha Phêrô Nguyễn văn Ðệ, SDB, hiện đang là giáo sự Ðại Chủng Viện Hà Nội làm Giám mục phụ tá giáo phận Bùi Chu. Ðức Hồng Y Crescenzio Sepe cũng đã loan báo tin vui này vào cuối thánh lễ phong chức cho 57 tân linh mục tại tại nhà thờ chính tòa Hà Nội vào sáng ngày 29/11/2005.

Giáo phận Bùi Chu, cho đến nay vẫn được coi là nơi đầu tiên đón nhận Tin Mừng tại Việt Nam. Từ năm 1640-1954, Bùi Chu là vùng truyền giáo. Sau đó, vào năm 1960, giáo phận Bùi chu được Tòa Thánh nâng lên bậc giáo phận chính tòa do Ðức Cha Giuse Phạm Năng Tĩnh coi sóc. Tuy có diện tích nhỏ nhất, nhưng giáo phận Bùi Chu có số giáo hữu đông nhất trong Giáo Hội Việt Nam.  Ðức Giám mục hiện nay của giáo phận Bùi Chu là Ðức Cha Giuse Hoàng Văn Tiệm, được Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II bổ nhiệm ngày 14/07/2001.

Giáo Phận Bùi Chu biện nay nằm gọn trong tỉnh Nam Ðịnh, bao gồm sáu huyện (Xuân Trường, Giao Thủy, Hải Hậu, Nam Trực, Trực Ninh, Nghĩa Hưng) và khu vực xứ Khoái Ðồng, thành phố Nam Ðịnh. Tổng dân số cư ngụ trong 6 huyện và khu vực xứ Khoái Ðồng, thành phố Nam Ðịnh, thuộc giáo phận Bùi Chu là 1,336,400 người. Số giáo dân Công giáo là 380,130 người, chiếm tỷ lệ 28,44%. Dân chúng Bùi Chu có khoảng 84% làm nông nghiệp, 5% làm nghề thương mại, cơ khí kỹ nghệ, tiểu thủ công nghiệp... Giáo phận Bùi Chu gồm có 13 giáo hạt với 129 giáo xứ.

Ðôi dòng sơ lược tiểu sử của tân giám mục Phêrô Nguyễn Văn Ðệ:

- Tân giám mục Phêrô Nguyễn Văn Ðệ sinh ngày 15/1/1946 tại Trí Bưu, Thạch Hãn, tỉnh Quảng Trị thuộc tổng giáo phận Huế.

- Ðược ơn kêu gọi, ngài gia nhập Dòng Salesien thánh Don Bosco.

- Sau khi học xong trung học, ngài được gửi đi học triết học tại Hồng Kông từ năm 1965-1968.

- Theo học Thần Học tại Giáo Hoàng học viện Ðà Lạt  từ năm 1970-1974.

- Khấn Dòng Salesien Thánh Don Bosco vào ngày 15/8/1965.

- Thụ phong linh mục vào ngày 17/12/1973.

- Sau khi thụ phong linh mục, ngài đã đảm nhiệm các chức vụ khác nhau như sau:

- từ năm 1976-1979: làm Cha giáo Nhà Tập của Dòng.

- từ năm 1979-1991: phụ trách Chánh xứ giáo xứ Xuân Hiệp, Thủ Ðức thuộc Tổng Giáo Phận Saigòn.

- từ năm 1992-1997: Bề trên Giám Tỉnh Dòng Salesien Việt Nam.

- từ năm 1997-2000: Giám Ðốc Học Viện Thần Học Salesien Don Bosco.

- từ năm 2000- 2005: Giáo sư Ðại Chủng Viện Hà Nội.

Toàn thể linh mục tu sĩ Việt Nam đang phục vụ tại Á Châu xin chân thành chúc mừng giáo phận Bùi Chu và Hội Dòng Salesien Thánh Don Bosco. Nguyện chúc Ðức Tân Giám Mục luôn được tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần và luôn được bình an khỏe mạnh để dìu dắt đoàn dân Chúa trong sứ vụ mới mà Chúa đã giáo phó.

 

(Joseph Trương)

Radio Veritas

Text Box: TÌM HIỂU & SỐNG ĐẠO
 

 

 

Lễ Thánh Phanxicô Xaviê

Hôm nay, chúng ta hân hoan mừng lễ Thánh Phanxicô Xaviê, một nhà truyền giáo lớn của Á Châu. Suốt cả cuộc đời thánh nhân là một lời nhắn nhủ chúng ta về sứ điệp của Chúa Giêsu: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16, 15). Đó cũng là mối ưu tư hàng đầu của những người nhận Thánh Phanxicô làm bổn mạng. Chúng ta học nơi Thánh Phanxicô lòng quyết tâm muốn làm sáng danh Chúa, dù khó khăn nào cũng vượt qua, nhất là nhờ ơn Chúa, chúng ta biến điều tưởng chừng không thể thành có thể.

1. Thánh Phanxicô, một mẫu gương về đời sống truyền giáo :

 

Trước hết  chúng ta nhận thấy rằng Thánh Phanxicô Xaviê là một nhà truyền giáo của lục địa Á Châu. Ngài là người nước Tây Ban Nha xa xôi, xuất thân từ một gia cảnh giàu có, thành đạt trong công việc và học hành. Có thể nói con đường tiến thân đang rộng mở phía trước, ngài có điều mà bao thanh niên thời đó có ước mong cũng không thấy. Có học thức, có tài năng, đẹp trai và nhiều học vị, bằng cấp nhưng thánh nhân không bước đi trên đường công danh sự nghiệp. Vì Chúa đã kêu gọi và hướng dẫn ngài đi trên con đường khác. Đó là cuộc hành trình đi qua các vùng đất Châu Á để rao giảng Tin Mừng. Đó cũng là con đường dẫn đưa ngài quay trở về với Chúa. Dù trước đây có bị sức hút của sự thành đạt  và danh vọng, song thánh nhân đã sớm tỉnh ngộ. Bắt đầu lên đường truyền giáo là bắt đầu một cuộc sống mới đầy gian nan thử thách. Kể từ đo, ngài không còn được sống cho mình nữa, không còn được khoe khoang tự đắc với những gì mình có. Trái lại suốt cả ngày thánh nhân luôn trăn trở làm sao đem được thật nhiều linh hồn về với Chúa. Đối với thánh nhân truyền giáo là ra khơi, không sợ nguy hiểm đang chờ đợi phía trước, mặc kệ sóng to gió lớn, khí hậu khắc nghiệt  và có khi phải thiệt thân.



2. Truyền giáo là sống yêu thương, thân thiện và hòa đồng với mọi người :

 

Đất nước Thánh Phanxicô đặt chân đến đầu tiên là Ấn Độ. Ở bất cứ nơi đâu, ngài dễ dàng hội nhập với nền văn hóa bản địa, ngài học ngôn ngữ dân địa phương để có thể thông truyền Tin Mừng cho họ, Ngài sống thân thiện với người dân địa phương như bạn bè của họ, như anh em của mọi nhà. Được Chúa gởi đến nơi đâu, ngài dành trọn tấm lòng để yêu thương người dân và vùng đất nơi đó. Bằng chứng là chúng ta thấy ngài gởi thư cho các bạn kể về những nơi mà ngài đến, về sự tốt đẹp của những người dân địa phương. Bởi vì ngài chỉ có hành trang gọn nhẹ là một cây thánh giá và một trái tim yêu Chúa nồng nàn, ngài có thể di chuyển đến bất cứ nơi đâu.

 

Thật thế, Thánh Phanxicô đích thực là tông đồ của Đức Giêsu. Đáp lại lời mời gọi của Đức Giêsu năm xưa, Thánh Phanxicô đi đến truyền giáo ở ba quốc gia : Ấn Độ, Nhật Bản và Trung Hoa. Thành quả của công cuộc truyền giáo tại Á Châu là con số những anh chị em được rửa tội càng ngày càng đông. Một cách cụ thể, thánh Phanxicô đã rửa tội cho 2000 người Nhật Bản, trong 11 năm truyền giáo Ngài đi được 79.800 km. Đó là những con số biết nói, thể hiện tấm lòng nhiệt thành  truyền giáo của ngài.

 

Qua cuộc đời của thánh Phanxicô chúng ta nhớ lại lời Thánh Phaolô dạy các Kitô hữu : “Thiên Chúa làm mọi sự tốt lành cho những ai yêu mến Ngài”. Thánh Phanxicô luôn ý thức mọi việc mình làm đều do Chúa trợ giúp, và ngài chỉ dốc hết tâm sức vào những việc đó trong niềm tin tưởng ở Chúa. Không ai không biết rằng, ra khơi truyền giáo là bước lên một con đường vô định, cả Thánh Phanxicô cũng hiểu điều đó. Hơn ai hết, ngài lại tin mạnh mẽ rằng Thiên Chúa luôn đồng hành với minh và  không việc gì mà Thiên Chúa không làm được.


3. Truyền giáo là nghĩa vụ không của riêng ai :

 

Điểm sơ lại cuộc đời của Thánh Phanxicô để chúng ta thấy rằng mỗi người Kitô hữu cũng  phải là một nhà truyền giáo. Có thể chúng ta không được đi đến những vùng xa xôi, tiếp xúc với những con người hoàn toàn xa lạ để nói về Chúa, thế nhưng nghĩa vụ truyền giáo không phải là việc của riêng ai. Được lãnh nhận Bí tích Rửa tội mỗi người Kitô hữu được Chúa Giêsu ủy thác sứ mạng ra đi loan báo Tin Mừng. Có rất nhiều cách thức để truyền giáo, trong đó truyền giáo bằng chính đời sống gương mẫu tốt lành lại là việc nằm trong tầm tay của chúng ta. Nhờ cuộc sống, lời nói và cách đối nhân xử thế của chúng ta những người ngoài Công giáo sẽ nhận ra Chúa. Bao giờ Chúa cũng muốn chúng ta thi hành sứ mạng truyền giáo, rất nhiều người thiện chí đang muốn lắng nghe lời của chúng ta nói về Chúa, họ đang nhìn vào đời sống của những người mang danh Kitô hữu.

 

Hôm nay mừng lễ Thánh Phanxicô, noi gương ngài chúng ta đem Chúa đến những nơi mình đang sinh sống, giới thiệu một cách trung thực về sứ điệp của Chúa cho những anh chị em đang cần lắng nghe, nhất là qua đời sống yêu thương của chúng ta là dấu hiệu chúng ta là môn đệ của Chúa Giêsu. Ngay từ bây giờ chúng ta hãy bắt đầu xây dựng tình đoàn kết yêu thương, cộng tác, rộng mở đón nhận mọi người, để làm cho khu xóm, gia đình và cộng đoàn mình đang thuộc về được phát triển về mọi mặt.


Lạy Chúa, hôm nay Chúa kêu gọi chúng con lên đường truyền giáo bằng chính gương đời sống nhiệt thành truyền giáo của Thánh Phanxicô Xaviê. Đối với dân tộc Á Châu ngài là anh em của mọi người từ lâu lắm rồi. Chúng con mãi mãi biết ơn ngài đã đem Chúa đến cho chúng con. Xin cho chúng con biết bắt chước Thánh Phamxicô để sống một cuộc đời Kitô hữu tốt, nhất là chúng con biết yêu thương mọi người, bất kể họ là người Công giáo hay không Công giáo, nhờ đó mỗi ngày có thêm nhiều người tin theo Chúa. Amen

 

VHL

 

PHÁ THAI – TỘI ÁC TÀY TRỜI

Nhân Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới nhóm họp trong ba tuần từ ngày 3–22.10.2005 vừa qua, trong một bài giảng tại nhà thờ giáo xứ của mình, tôi đã đề cập đến nội dung và hình thức của Thượng Hội Đồng lần này. Đặc biệt, tôi nhấn mạnh đến vạ tuyệt thông đối với tất cả những ai có liên quan đến vấn đề phá thai, dựa vào một điểm giáo lý quen thuộc của Giáo Hội, được Thượng Hội Đồng nhắc lại trong kỳ họp này:

Cấm tất cả những ai ủng hộ lập trường phá thai lãnh nhận bí tích Thánh Thể.

Sau đó khoảng hai tuần, tôi nhận được một lá thư ngắn không ký tên, có lẽ là của một giáo dân thuộc giáo xứ nơi tôi phụ trách. Lá thư viết:  “Kính thưa Cha, có vài điều con băn khoăn mà không biết hỏi ai. Vì thế, con xin Cha vui lòng giải đáp cho chúng con. Cụ thể, cách đây nửa tháng, khi đề cập đến Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới, Cha có nói rằng, Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới nghiêm cấm những người phạm những tội có liên quan dến phá thai rước lễ. Vậy từ trước đến nay, phá thai là được phép sao, vì thế được rước lễ, còn bây giờ thì nghiêm cấm sao? Và ‘những người liên quan’ mà cha muốn nói đến, cụ thể là ai?  ”.  

Hai tuần sau khi nhận lá thư, tôi đã trả lời trên tòa giảng và coi đó như một bài giáo lý rất cần cho mọi người, nhất là cho các Kitô hữu khi phải sống giữa thời đại mà lương tâm con người dường như đã biến mất. Nhất là không phải mọi thứ đều có thể dựa vào luật dân sự, chẳng hạn vấn đề ly dị, phá thai, ngừa thai, một số khoản quy định về sự công bằng như nhà ở, đất đai, của cải… là có thể giải quyết. Trái lại, những điều nêu trên, dù được luật dân sự cho phép, nhưng không bao giờ được giáo Hội cho phép, vì đi ngược lại giáo huấn của Chúa Kitô và mạc khải từ đời đời của Thiên Chúa.

Vì coi là một bài giáo lý, với tất cả những suy nghĩ như trên, để trả lời lá thư, tôi đã không có ý kiến gì của mình, mà chỉ dựa trên Lời Chúa và lề luật của Giáo Hội. Hôm nay tôi muốn viết lại bài giáo lý cho hoàn hảo hơn. Mời bạn tham khảo:

 

I. ĐIỀU RĂN THỨ V: CHỚ GIẾT NGƯỜI.

Trước hết, ta phải nói ngay rằng, phá thai là vi phạm điều răn thứ V vì đó là hành vi giết người dù trực tiếp hay gián tiếp.

Từ ngàn xưa, khi trao ban lề luật cho dân của mình qua ông Môsê, Thiên Chúa đã nghiêm cấm:  “Ngươi không được giết người”  (Xh 20, 13). Điều răn thứ V được Giáo Hội đọc trong kinh Mười Điều Răn:  “Thứ năm, chớ giết người ”.

Đó là quy định của lề luật Môisen trong Cựu Ước. Đến thời Tân Ước, giáo huấn của Chúa Giêsu về điều răn thứ V còn nghiêm minh hơn, quyết liệt hơn:  “Anh em đã nghe luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người; ai giết người thì đáng bị đưa ra tòa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra tòa. Ai mắn anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hỏa ngục thiêu đốt”  (Mt 5, 21- 23).

Như vậy, đối với Chúa Giêsu, chẳng cần phải giết hại ai, chỉ mới có thái độ xúc phạm, thì đã là điều đáng lên án. Vì thế, từ giáo huấn của Chúa Giêsu, ta nhận ra rằng, loài người đáng quý giá biết chừng nào. Vì sự quý giá ấy, Thiên Chúa đòi ta phải tuyệt đối tôn trọng sự sống của mọi người từ giây phút đầu thành thai, đến lúc rời bỏ cuộc đời bằng một cái chết tự nhiên.

Nhằm giải thích thêm những quy định của Thánh Kinh về điều răn thứ V, Công Đồng Vatican II trong hiến chế “Giáo Hội trong thế giới ngày nay” nhắc lại:  “Sự sống ngay từ lúc thụ thai phải được gìn giữ hết sức cẩn thận; phá thai và giết trẻ em là những  tội ác ghê tởm (số 51)

Sách Giáo Lý Công Giáo cũng viết:  “Sự sống của con người là điều linh thánh, vì từ ban đầu sự sống này nằm trong quyền lực sáng tạo của Thiên Chúa và luôn liên kết với cứu cánh duy nhất của mình là chính Đấng Sáng Tạo. Từ khởi thủy cho đến cùng tận đời người, chỉ có Thiên Chúa là chủ sự sống: trong bất cứ hoàn cảnh nào, không ai được phép hủy hoại mạng sống người vô tội”  (số 2258).

Rõ ràng, với Lời của Thiên Chúa và giáo huấn của Giáo Hội khi dựa trên Lời ấy, chúng ta thấy giết người đã là một tội ác cần phải lên án. Do đó, phá thai càng là tội ác man rợ ghê gớm, vì thế càng phải quyết liệt lên án và lên án dữ dội. Bởi chính khi  Phái thai là thủ tiêu một con người vừa mới bắt đầu làm người, là giết chết một con người hoàn toàn vô tội, hoàn toàn bé bỏng, hoàn toàn yếu đuối, không một phương thế khả dĩ nào để có thể tự vệ, ngay cả phương tiện tự vệ yếu đuối nhất là tiếng khóc, cũng không có. Đó là hành vi tấn công sự sống con người từ trong trứng nước một cách ác ý và tàn nhẫn.  Vì thế, tội phá thai là tội rất nặng. Bởi nó là một hành vi tội ác đáng ghê tởm ngang hàng với tội sát hại trẻ sơ sinh (GS 51).

 

II. NHỮNG MẠC KHẢI CỦNG CỐ THÊM ĐIỀU RĂN THỨ V.

 Ngoài mạc khải của Thiên Chúa quy định rõ ràng về việc bảo vệ sự sống bằng luật cấm giết người, ta quen gọi là điều răn thứ V, Thánh Kinh không ít lần mạc khải cho ta về tính cách cao cả, bất khả xâm phạm trên sự sống ấy.

 

1. Những mạc khải liên quan đến tính cách bất khả xâm phạm của sự sống.

 Ngay từ cuốn sách đầu tiên của Thánh Kinh, Sách Sáng Thế, đã cho ta biết cách hết sức rõ ràng Thánh ý của Chúa về sự sống của đồng loại xung quanh: chẳng hạn, ngày Cain giết chết em mình là Abel, Chúa đã chỉ thẳng vào mặt Cain và nói rằng:  “Từ dưới đất tiếng máu của em ngươi đang kêu lên Ta. Giờ đây ngươi bị nguyền rủa bởi chính đất đã từng há miệng hút lấy máu em ngươi, do tay ngươi đổ ra”  (St 4, 10-11). Sách Sáng Thế tiếp tục làm sáng tỏ tính cách cao quý không gì bằng sự sống con người:  “Ta sẽ đòi con người phải đền nợ máu, Ta sẽ đòi mỗi người phải đền mạng sống của anh em mình. Ai đổ máu con người, thì máu nó sẽ bị con người đổ ra, vì Thiên Chúa đã làm ra con người theo hình ảnh Thiên Chúa”  (St 9, 5-6).

Điều đáng nói ở đây, là khi ta giết người, máu người anh em của ta không chỉ thấm xuống đất mà lại vọng về trời cao. Máu đó  “đang kêu lên”  đến Thiên Chúa. Có nghĩa là, khi ta xúc phạm đến sự sống của đồng loại, cũng chính là xúc phạm đến chính Thiên Chúa, tác giả của sự sống ấy. Bởi xúc phạm đến chính Thiên Chúa, Người sẽ đòi ta đền mạng sống của người anh em mà ta sát hại.

 –  Sách Xuất hành cũng bênh vực sự sống của người vô tội:  “Ngươi không được giết kẻ vô tội và công chính, vì Ta không cho kẻ có tội được trắng án”  (23, 7).

 –  Chính Chúa Giêsu, trước hành động dùng gươm bênh vực Thầy của thánh Phêrô, đã lên tiếng ngăn cấm:  “Hãy xỏ gươm vào vỏ, vì tất cả những ai cầm gươm sẽ chết vì gươm”  (Mt 26, 52). Hơn nữa nhiều lần Chúa Giêsu còn dạy ta chẳng những không được giết hại mà còn phải yêu thương, tha thứ cho kẻ thù của mình (Mt 5, 44).

Nhưng không chỉ có lời dạy của Thiên Chúa mới cho ta thấy con người và sự sống của nó là bất khả xâm phạm. Hành động cứu độ của Thiên Chúa dành cho loài người, càng chứng tỏ  Thiên Chúa đề cao, gìn giữ, và quý trọng đến vô cùng loài người và sự sống của chính nó : Bởi chính Thiên Chúa, Đấng là chủ tể mọi loài, có quyền quyết định trên mọi sự sống, không những đã không làm tổn thương sự sống loài người, ngược lại còn tôn trọng sự sống ấy ngay cả khi loài người phản bội mình (St 3, 1- 24).

Hơn nữa, chính vì loài người và vì sự sống ấy, Thiên Chúa lại còn ban Đấng Cứu Độ là chính Người Con Một của mình đến trần gian, sống bằng chính sự sống của loài người mà cứu độ loài người.

 Bởi Thiên Chúa đã tôn trọng sự sống của ta đến mức không thể tưởng tượng như thế, cho nên ta cũng không bao giờ được phép xem thường và giết hại mạng sống của đồng loại quanh mình. Nếu “ai đổ máu con người, thì máu nó sẽ bị con người đổ ra”  (St 9, 5-6).

Nếu Thiên Chúa đặc biệt tôn trọng sự sống loài người, thì thai nhi, sự sống khởi đầu của đời người luôn luôn nằm trong ý định thánh thiêng của Thiên Chúa. Vì thế, Người cũng sẽ “đòi nợ máu” (St 9, 5) của những kẻ góp phần mình bằng mọi hình thức, mọi mức độ nhằm giết chết thai nhi.

2. Những mạc khải cho thấy sự cao trọng của thai nhi.

 Cách riêng, ngoài mạc khải về tính cách cao cả tuyệt đối của sự sống, Thánh Kinh cũng không quên nhấn mạnh đến sự sống con người ngay từ khi thành thai:  “Tạng phủ con, chính Ngài cấu tạo, dệt tấm hình hài trong dạ mẫu thân con. Tạ ơn Chúa đã dựng nên con cách lạ lùng, công trình Ngài xiết bao kỳ diệu… Xương cốt con, Ngài không lạ lẫm gì, khi con được thành hình trong nơi bí ẩn, được thêu dệt trong lòng đất thẳm sâu. Con mới là bào thai, mắt Ngài đã thấy; mọi ngày đời được dành sẵn cho con đều thấy ghi trong sổ sách Ngài, trước khi ngày đầu của đời con khởi sự”  (Tv 139, 13- 16).

Đặc biệt, khi trình bày ơn gọi làm tiên tri của mình, tiên tri Giêrêmia đã khẳng định dứt khoát rằng, Thiên Chúa đã nhìn thấy ông, đã tuyển lựa ông, đã giao cho ông sứ mạng làm tiên tri ngay cả khi ông còn chưa là gì, ngay cả khi ông chưa có mặt trong lòng dạ mẹ mình:  “Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi. Trước khi ngươi lọt lòng mẹ, ta đã thánh hóa ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân”  (Gr 1, 5).

Qua một vài mạc khải, tuy ít, nhưng hết sức quan trọng về sự cao cả của thai nhi, đủ làm bằng chứng lớn cho việc bảo vệ thai nhi của chúng ta. Vì không phải đợi đến khi được sinh ra trong cõi đời này, loài người mới thuộc về Thiên Chúa, và Thánh ý của Người mới an bài để họ sống trong tình yêu và ơn cứu độ “Người đã dành sẵn cho muôn dân” (Lc 2, 31). Không phải như thế! Trước khi ta chưa là ta, Thiên Chúa đã tôn trọng giá trị sự sống của ta. Trước khi ngày đầu của đời ta khởi sự (Tv 139, 16), Chúa đã thể hiện sự quan phòng sắp xếp chương trình đời sống của ta.

Sự sống loài người càng quý giá, càng đáng yêu biết bao nhiêu, bởi Thiên Chúa đã nhìn thấy mọi người và từng người, đã “biết”, đã “không lạ lẫm gì”, đã “thánh hóa”, đã trao ban ơn gọi “TRƯỚC KHI” – tôi xin nhấn mạnh và lưu ý đặt biệt hai chữ “TRƯỚC KHI” này – mỗi một người trong chúng ta thành hình. TRƯỚC KHI ta chưa là ta, chính Chúa, chứ không phải ai khác “đã dệt tấm hình hài” của ta trong lòng mẹ. Từ đời đời, Người đã trao ban tình yêu của Người cho ta.

 Vì thai nhi có giá trị vô cùng trong tình yêu của Chúa như thế, thành ra xúc phạm đến mạng sống của thai nhi cũng đồng thời xúc phạm trực tiếp đến tình yêu, sự quan phòng và đường lối của Thiên Chúa, bởi đó cũng XÚC PHẠM ĐẾN CHÍNH THIÊN CHÚA.

 

III. GIÁO HUẤN CỦA GIÁO HỘI NÓI GÌ VỀ TỘI PHÁ THAI.

 Sự kết án những ai phá thai và những ai có liên quan đến hành vi man rợ này, không phải là điều mới, nhưng đã có truyền thống từ lâu đời trong Giáo Hội. Không thể kể hết tất cả giáo huấn của Giáo Hội, chúng ta chỉ có thể trích đoạn một vài văn kiện hay tác phẩm của các tác giả nổi tiếng trong Giáo Hội mà thôi.

 1. Giáo Hội nghiêm khắc lên án hành vi phá thai.

 Ngay từ thời các tông đồ, Giáo Hội đã lên án việc phá thai. Sách Didaché (sáng tác vào khoảng trước năm 100) quy định rất rõ ràng:  “Ngươi chớ giết người… Ngươi chớ giết con bởi phá thai và ngươi sẽ không làm cho nó chết sau khi nó sinh ra…”  (I, 1).  Sách Didaché nói thêm:  “Anh em không được gây ra việc phá thai. Anh em không được giết các trẻ sơ sinh”  (II, 2).

Tác giả Tertulianô khẳng định:  “Chỉ cần cản trở sinh ra thì đã là kẻ giết người rồi, người ta tước đoạt sự sống đã sinh ra hay là người ta hủy diệt nó trong lúc nó sinh ra thì không có gì khác biệt nhau cả. CÁI PHẢI TRỞ THÀNH MỘT CON NGƯỜI THÌ ĐÓ LÀ MỘT CON NGƯỜI RỒI”  (Minh giáo IX, 8).

Đức Thánh Cha Gioan XXIII, vào năm 1961, trong thông điệp “Mẹ và Thầy”, khi lưu tâm đến vấn đề nhu cầu về lương thực và sự gia tăng dân số thế giới đã tố cáo thế giới:  “Người ta không được đối đầu với các vấn đề này  (tức là vấn đề lương thực dành cho các nước nghèo và dân số gia tăng ),  không được giải quyết các khó khăn này bằng cách dựa vào những phương tiện bất xứng với con người, vì chúng xuất phát từ một quan niệm rõ ràng duy vật về con người và về sự sống”  (số 178).

Hiến chế Mục vụ “Giáo Hội trong thế giới ngày nay” số 51 mà chúng ta đã trích trong phần “I. Điều răn thứ V: chớ giết người”, đã lên án gay gắt tội phá thai và tội giết trẻ thơ. Hiến chế gọi đó là  “những tội ác ghê tởm ”.

Đặc biệt, Đức Thánh Cha Phaolô VI đã có nhiều văn kiện đề cập đến vấn đề phá thai. Chẳng hạn trong thông điệp nổi tiếng, thông điệp “Sự sống con người” (ban hành ngày 25.7.1968), Đức Thánh Cha lưu ý các chính quyền về vấn đề kiểm soát sinh sản:  “Chúng tôi muốn nói với những nhà cầm quyền…: các ngài đừng để nền luân lý của dân tộc quý ngài đi vào chỗ sa đọa; xin quý ngài đừng chấp nhận để qua con đường luật pháp , những lề thói nghịch với luật tự nhiên và luật Thiên Chúa được đưa vào trong tế bào căn bản của xã hội là gia đình. Các chính quyền có một đường lối khác để giải quyết vấn đề dân số; đó là con đường của một chính sách dự phòng về gia đình, một nền giáo dục khôn ngoan, biết tôn trọng luật luân lý và tôn trọng sự tự do của công dân”  (số 23).

Còn tại Hội nghị Thế giới về Lương thực và Nông nghiệp, ngày 9.11.1974, Đức Thánh Cha Phaolô VI đã thẳng thắn trình bày cách mạnh mẽ:  “Một điều không thể nào chấp nhận được, đó là những người đang nắm trong tay tài sản và những tài nguyên của nhân loại lại tìm cách giải quyết vấn đề nạn đói bằng cách cấm không cho những người nghèo sinh ra, hoặc để cho những trẻ em nghèo phải chết đói, những trẻ em mà cha mẹ chúng không có chỗ đứng trong những kế hoạch có tính lý thuyết, hoàn toàn xây dựng trên những giả thuyết về tương lai nhân loại của họ. Xưa kia, trong một quá khứ mà chúng ta hy vọng là đã đi qua, nhiều nước đã gây chiến để chiếm lấy những tài sản của những nước lân cận. Vậy phải chăng ĐÂY LÀ MỘT HÌNH THỨC MỚI CỦA CHẾN TRANH khi người ta áp đặt chính sách hạn chế sinh sản cho những dân tộc khác, để CÁC DÂN TỘC NÀY ĐỪNG ĐÒI CÁC PHẦN CHÍNH ĐÁNG CỦA HỌ VỀ TÀI SẢN CỦA TRÁI ĐẤT”  (số 6).

Trong tuyên ngôn “Về việc phá thai” (ban hành ngày 18.11.1974) của Thánh bộ Giáo lý Đức tin, càng xác định rõ ràng hơn lập trường của Giáo Hội:  “Cần phải tôn trọng sự sống con người ngay từ khi bắt đầu quá trình sinh sản. Từ khi trứng thụ tinh, đã có một sự sống mới bắt đầu, không phải của cha, cũng không phải của mẹ. Đúng hơn, đó là sự sống của một con người mới sẽ được phát triển riêng. Sự sống ấy sẽ không bao giờ trở thành người được nếu đã không là người. Vì vậy luật Thiên Chúa cũng như lý trí tự nhiên không cho phép bất cứ ai có quyền giết một con người vô tội”  (III, 12).

Và nếu thai nhi là người vô tội, thì Thánh bộ Giáo lý đức tin, trong huấn thị “Ơn ban sự sống” (ban hành ngày 22.2.1987) dạy rằng:  “Không ai, trong bất cứ trường hợp nào, có thể đòi cho mình quyền trực tiếp hủy diệt một con người vô tội”  (số 5).

Tiếp nối các vị tiền nhiệm, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, trong nhiều văn kiện, nhiều bài giảng, bài phát biểu, đã thẳng thừng chỉ trích hành vi phá thai, đồng thời tái khẳng định lập trường của Giáo Hội là gìn giữ và bảo vệ sự sống.

Đặc biệt, để nối tiếp thông điệp “Sự sống con người” của Đức Phaolô VI, Đức Gioan Phaolô II đã viết thông điệp “Tin mừng về sự sống” (ban hành ngày 30.3.1995), trong đó, ngài lên án mọi hành vi thủ tiêu sự sống. Đặc biệt lên án gắt gao hành vi phá thai:  “Sự phá thai do cố ý gây ra, dù được thực hiện bằng cách nào, là việc giết chết, có suy nghĩ và trực tiếp, một con người trong giai đoạn đầu của nó, ở giữa sự thụ thai và sự sinh đẻ… Kẻ bị thủ tiêu là một con người mới bắt đầu hiện hữu, nghĩa là, trong tuyệt đối, một hữu thể vô tội nhất mà người ta có thể tưởnng tượng, không bao giờ nó có thể được coi như một kẻ tấn công, lại càng không thể coi như một kẻ tấn công bất chính!... Nó hoàn toàn được giao phó cho sự bảo vệ và những chăm sóc của người mang nó trong dạ. Ấy thế mà đôi khi chính người ấy, bà mẹ, lại quyết định và yêu cầu thủ tiêu nó và đi đến chỗ gây ra sự thủ tiêu đó… Những lý do này và những lý do khác tương tự dù nghiêm trọng và bi thảm đến đâu, cũng không bao giờ có thể biện minh được cho sự thủ tiêu có suy nghĩ một con người vô tội”  (số 58).

2. Vạ tuyệt thông tiền kết.

Giáo luật 1398: “Ai thi hành việc phá thai, và việc phá thai có kết quả, sẽ mắc vạ tuyệt thông tiền kết”.

“Tiền kết” hiểu nôm na có nghĩ là “kết án trước”. Dù không biết là có tội, có vạ hay không, hoặc biết không rõ ràng, thì bất cứ hành vi phá thai nào được thực hiện, cũng như cộng tác vào hành vi này, và thực hiện có kết quả, nghĩa là thai ra khỏi lòng mẹ, sẽ mắc vạ. Để tha vạ, chỉ có một mình Đức Giám mục giáo phận hoặc những người đứng đầu giáo phận, hoặc Đại diện Đức Giám mục được ngài ủy thác… mới có thẩm quyền mà thôi. Nhưng tại Việt Nam, do ân xá của Tòa Thánh, các Đức Giám mục trao quyền tha vạ cho các linh mục giải tội có thể tha vạ.

Giáo lý Công giáo trong khi lên án hành vi phá thai, đã trích lại khoản luật trên:  “Cộng tác vào chính việc phá thai là một lỗi nặng. Theo Giáo Luật, Hội Thánh ra vạ tuyệt thông cho kẻ phạm tội này… (Hội Thánh) muốn nhấn mạnh tính cách nghiêm trọng của tội ác đã phạm, sự thiệt hại không sửa chữa được đã gây ra cho trẻ vô tội bị giết chết, cho cha mẹ của em và cho toàn xã hội”  (số 2272).

Ngoài ra, vừa như để giải thích cho sự lên án gắt gao tội ác phá thai, vừa như nhấn mạnh tuyệt đối đến quyền được làm người, quyền được sống của thai nhi, sách Giáo lý Công giáo nói thêm:  “Sự sống con người phải được tuyệt đối tôn trọng từ lúc được thụ thai. từ giây phút bắt đầu có mặt trong lòng mẹ, con người phải được kẻ khác nhìn nhận các quyền làm người, trong đó có quyền được sống và quyền bất khả xâm phạm”  (số 2270). Và:  “Ngay từ lúc thành thai, phôi thai phải được đối xử  như một nhân vị, nên phải được hết sức bảo vệ toàn vẹn, chăm sóc và chữa trị như mọi con người khác”  (số 2274).

Riêng Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, nhân danh uy quyền mà Thiên Chúa trao ban và sự hiệp thông với Giám mục đoàn trên toàn thế giới đã kết tội những người phá thai, và những người có liên quan đến các nố phá thai một cách không khoan nhượng, nhưng hết sức mạnh mẽ:  “Tôi tuyên bố rằng việc phá thai trực tiếp, nghĩa là được muốn như mục đích hay như phương thế, luôn luôn là một thác loạn luân lý nghiêm trọng xét như là sự cố ý giết chết một con người vô tội”  (thông điệp Tin mừng về sự sống, số 62).

Như vậy, đã rõ ràng, phá thai là tội rất nặng, nặng hơn so với mọi hình thức giết người thông thường. Vì giết một người đã được sinh ra là tội nặng, nhưng không bị mắc vạ tuyệt thông. Còn phá thai, vừa là tội trọng, vừa mắc vạ tuyệt thông. Mà vạ này lại là vạ tuyệt thông tiền kết.

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã coi tội này là tội đứng hàng thứ nhất. Nhưng dù đặt tội ác này đứng hàng đầu, không có nghĩa là Giáo Hội muốn phạt vạ cho bằng muốn kêu mời tội nhân, qua việc nhìn thấy tính chất nghiêm trọng của tội mà quay về với Thiên Chúa và Giáo Hội của Người:  “Vạ tuyệt thông đánh vào tất cả những ai phạm tội ác này… Kể cả những kẻ tòng phạm mà nếu không có họ thì việc thực hiện tội ác đó không thể xảy ra; bằng sự xác nhận hình phạt ấy  (tức là phạt vạ),  Giáo Hội chỉ rõ tội ác này như một trong những tội ác nghiêm trọng và nguy hiểm nhất, ĐỂ THÚC ĐẨY NHỮNG KẺ PHẠM TỘI NHANH CHÓNG TÌM LẠI CON ĐƯỜNG HOÁN CẢI”  (thông điệp Tin mừng về sự sống, số 62).

 

IV.TRONG VẤN ĐỀ PHÁ THAI, AI MẮC TỘI VÀ MẮC VẠ?

 Trong vấn đề phá thai, thật là bất công khi ta chỉ trút hết trách nhiệm trên người mẹ trong việc sát hại con mình. Còn nhiều người khác nữa phải gánh lấy trách nhiệm này. Có khi Trách nhiệm của những người đó ngang bằng, nhưng cũng có khi còn lớn hơn trách nhiệm của chính bà mẹ.  Tất cả họ đều mắc tội và mắc vạ tuyệt thông.

 Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trả lời rất đầy đủ và rõ ràng cho vấn đề này trong thông điệp “Tin mừng về sự sống”. Đức Thánh Cha viết trong thông điệp “Tin mừng về sự sống”, số 59:

 –  Để quyết định về cái chết của đứa con chưa sinh ra, bên cạnh bà mẹ, thường có những người khác. Trước hết NGƯỜI CHA của đứa con có thể mang tội, không chỉ khi ông ta dứt khoát đẩy người phụ nữ đó vào việc phá thai, nhưng cả khi gián tiếp hỗ trợ quyết định của bà, bởi vì ông ta để bà cô độc một mình trước những vấn đề do sự mang thai đặt ra. 

 –  Người ta cũng không thể lờ đi trước NHỮNG XÚI GIỤC đôi khi đến từ phạm vi gia đình rộng lớn hơn và từ bè bạn. Thường người PHỤ NỮ phải chịu những áp lực mạnh đến nỗi về mặt tâm lý họ cảm thấy bị bắt ép phải đành chịu phá thai: không còn nghi ngờ chút nào, trong trường hợp đó, trách nhiệm tinh thần đặt biệt đè nặng trên NHỮNG AI BUỘC BÀ phải phá thai, trực tiếp hay gián tiếp  (phần này Đức Thánh Cha cũng đề cập đến người phụ nữ, nhưng lại dành cho họ một trách nhiệm nhẹ hơn. Họ chỉ là tác nhân thụ động trong việc phái thai ).

 Các THẦY THUỐC và NHÂN VIÊN Y TẾ đều có trách nhiệm khi họ đem phục vụ cho cái chết những khả năng chuyên môn đã đạt được để thăng tiến sự sống.

 –  Trách nhiệm cũng quy vào CÁC NHÀ LẬP PHÁP đã xúc tiến và phê chuẩn các đạo luật ủng hộ việc phá thai.

 –  Những NGƯỜI QUẢN LÝ CÁC CƠ CẤU TRỊ LIỆU được sử dụng để thực hiện những nố phá thai.

 –  Một trách nhiệm toàn bộ nghiêm trọng đè nặng trên NHỮNG KẺ ĐÃ GIÚP CHO VIỆC PHỔ BIẾN MỘT NÃO TRẠNG BUÔNG THẢ về tình dục và khinh thường tư cách làm mẹ  (phần này Đức Thánh Cha quy trách nhiệm cho tất cả những người làm truyền thông như sách, báo, truyền thanh, truyền hình, mang lưới internet, bưu điện, bưu chính viễn thông… khi hỗ trợ phương tiện, góp phần phổ biến thảm trạng phá thai… Đức Thánh Cha cũng kết án những người vận động cho kế hoạch hóa gia đình, những người xúi giục người khác phá thai bằng bất cứ cách thức nào ,  kể cả những kẻ viết khẩu hiệu, vẽ bích chương, rải những “tờ bướm”, tư vấn về vấn đề mang thai, những người hành nghề mãi dâm hoặc những người a tòng cách chủ động hay thụ động đối với nghề này, những kẻ buôn bán phụ nữ, những kẻ chứa chấp, cho thuê phòng trọ, khác sạn, nhà nghỉ, những kẻ chủ trương hay đã thực hiện những “tua” du lịch tình dục, các trường học, các thầy cô giáo dạy học sinh về vấn đề giới tính không đến nơi đến chốn, khiến các em, thay vì sống đứng đắn, lại tò mò, tìm hiểu các này cách khác dẫn đến việc phá thai… Gần đây, một vài trang web đăng tải vài bài viết về việc ăn thai nhi. Nếu điều này là có thật, thì những kẻ ấy đúng là không còn tính người. Dĩ nhiên, họ và những ai chế biến các món ăn từ thai nhi, những kẻ cung cấp, buôn bán thai nhi… đều bị quy trách nhiệm. Kể cả chúng ta, những người hiểu rất rõ phá thai là tội ác nhưng vẫn thinh lặng để cho thảm trạng phá thai ngày càng lan tràn…),  cũng như NHỮNG NGƯỜI đáng lẽ đã phải tiến hành những chính sách gia đình và xã hội hữu hiệu để hỗ trợ các gia đình, đặc biệt là những gia đình gặp khó khăn cách riêng về mặt kinh tế và giáo dục, mà đã không chịu làm.

 –  Cuối cùng, người ta không thể đánh giá thấp MẠNG LƯỚI TÒNG PHẠM đang phát triển đến mức liên kết NHỮNG CƠ QUAN QUỐC TẾ, NHỮNG TỔ CHỨC DO TƯ NHÂN lập ra, NHỮNG HIỆP HỘI đấu tranh một cách có hệ thống cho việc làm pháp luật và phổ biến sự phá thai trên thế giới.

 Tất cả những cá nhân, những tập thể mà Đức Thánh Cha đề cập và quy trách nhiệm bên trên, tạo thành cả một cơ cấu tội lỗi chống lại sự sống con người chưa sinh ra. Có thể nói, tất cả những khuôn mặt ấy đều là kẻ thù số một của sự sống thai nhi. Họ không được phép nhân danh bất cứ một lý do nào, một sự kiện nào, một vấn đề nào để tự cho mình quyền loại trừ sự sống của người vừa thành thai trong lòng mẹ.

Và chúng ta, các Đức Giám mục, Hội Đồng Giám mục, các linh mục, cá nhân các tu sĩ, tập thể các dòng tu, các tu hội, tu đoàn tông đồ, các giáo lý viên, các Hội đồng giáo xứ, các thầy cô giáo, các y bác sĩ Công giáo, và tất cả mọi Kitô hữu nghĩ gì trước thảm trạng phá thai kinh hoàng này? Chúng ta có được phép làm thinh? Phải chăng chúng ta đã cộng tác vào việc phổ biến thảm trạng phá thai, dù thụ động, vì đã thinh lặng? Tội của chúng ta nằm ở chỗ đó.

 V. KẾT LUẬN.

 Trở lại bức thư bên trên :“ Vậy từ trước đến nay, phá thai là được phép sao, vì thế được rước lễ, còn bây giờ thì nghiêm cấm sao? Và ‘những người liên quan’ mà cha muốn nói đến, cụ thể là ai?  ”.  Qua những dẫn chứng từ Thánh Kinh đến huấn quyền của Giáo Hội từ xưa đến nay, chúng ta đã thấy rõ vấn đề.

 

Từ ngàn xưa, Giáo Hội không những chưa bao giờ cho phép phá thai, trái lại còn nghiêm cấm và lên án gắt gao đối với bất cứ hành vi phá thai nào. Giáo Hội luôn luôn coi việc phá thai là xấu xa tận cùng, là tổn thất nặng nề đối với giá trị con người, là sự đả thương vào danh dự và hình ảnh Thiên Chúa nơi con người, và trọng tội ghê gớm, đáng kinh tởm.

 Giáo huấn này luôn luôn được Giáo Hội nhắc đi nhắc lại hết thời đại này đến thời đại khác. Vì thế, nếu Thượng Hội Đồng Giám mục Thế Giới vừa qua có đề cập đến vấn đề có nên cho người ủng hộ phá thai rước lễ không, không có nghĩa là từ trước đến nay, phá thai không có tội. Đúng hơn, Giáo Hội nhắc đến thì cũng chỉ là nhắc đến một giáo huấn đã cũ trong lịch sử, nhưng vẫn còn mới trong hiện tại.

Hơn nữa, thế giới hôm nay vẫn là một thế giới đầy những giết chóc. Nhiều nhà lãnh đạo, trong đó có nhiều người là Công giáo, vẫn tiếp tục bưng tai bịt mắt, làm ngơ trước tiếng kêu gào của lương tâm, ngang nhiên ủng hộ phá thai và ký vào đạo luật cho phép phá thai. Vì thế, Thượng Hội Đồng Giám mục Thế Giới lần này nhắc lại vạ tuyệt thông (cấm rước lễ), là nhắm trước hết vào những tầng lớp lãnh đạo này, sau đó là mở rộng ra đối với mọi tầng lớp loài người.

Còn  “những người có liên quan đến vấn đề phá thai”  mà tôi muốn nói đến, đã được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trả lời trong thông điệp “Tin Mừng về sự sống”, số 59 mà tôi vừa trích bên trên (trong phần IV, “Trong vấn đề phá thai, ai mắc tội và mắc vạ”).

 

Tóm lại, bất cứ một hình thức nào nhằm tống xuất thai nhi ra khỏi lòng mẹ, đều là tội giết người, đều mang cùng một ý nghĩa như nhau: giết chết một con người từ ngay khi người ấy bắt đầu cuộc đời của họ. Vì thế, đó là một tội ác không thể tả. Nhằm ngăn chặn tội ác vô cùng này, Giáo Hội dựa trên mạc khải của Thiên Chúa, lên án gắt gao mọi hình thức phá thai và mọi hình thức cộng tác vào việc phá thai. Tất cả những ai góp phần vào nố phá thai, đều mắc tội trọng và mắc vạ tuyệt thông, không phải vạ tuyệt thông thông thường mà là vạ tuyệt thông tiền kết, vì đó là một tội ác lớn nhất chống lại sự sống, nếu không muốn nói là chống lại cả loài người.

 

Lm. VŨ XUÂN HẠNH

 

 

Hội Thánh nói gì về những trẻ em chết mà vẫn chưa được rửa tội?

 

 

Đây là một chủ đề thần học sâu rộng trải dài trong lịch sử thần học, bắt đầu từ thời thánh Augustinô, sôi nổi suốt thời Trung Cổ, và day dứt cho tới hôm nay. Hiện nay vấn đề càng được quan tâm hơn bởi có liên quan đến luân lí sự sống: việc phá thai quá phổ biến, có khi còn được hợp pháp hoá trong một số quốc gia để hạn chế dân số, việc chọn tạo nòi giống ưu sinh, chọn giới tính, việc nuôi phối các bào thai dùng trong y học…Rất nhiều vấn nạn được nêu lên đã khiến Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, lúc còn sống, đã yêu cầu Uỷ Ban Thần Học Quốc Tế nghiên cứu kĩ lưỡng hơn vấn đề này.

Chúng ta chỉ tìm hiểu một số điểm chính:

Sự cần thiết của Bí Tích Thánh Tẩy

 Ngay từ thời sơ khai, Hội Thánh đã ghi nhớ lời Chúa Giêsu dạy về sự cần thiết phải được “tái sinh bằng nước và Thánh Thần” (Gio 3, 5) để có thể được nhận vào Nước Trời. Do đó Hội Thánh, qua định tín của các Công Đồng, đã dạy rằng: “Ngoài bí Tích Thánh Tẩy, Hội Thánh không có phương thế nào khác bảo đảm cho con người được hưởng hạnh phúc đời đời. Vì thế, Hội Thánh không sao lãng sứ mệnh Chúa đã giao phó là rửa tội cho tất cả những ai có thể lãnh nhận, để họ được tái sinh nhờ nước và Thánh Thần.” ( GLCG, 1257; xem thêm Lumen Gentium, 14)

Chính trong mối quan tâm như vậy mà Giáo Hội khuyên các bậc cha mẹ phải lo cho con cái mình được rửa tội sớm nhất sau khi sinh và được chuẩn bị chu đáo để lãnh nhận ơn Bí Tích Rửa Tội (GL, 867; x. GLCG 1250)

Tuy nhiên, liên quan đến  các trẻ em chết mà chưa được rửa tội , GLCG, 1261 ghi: “ Hội Thánh chỉ còn biết trao phó các em cho lòng thương xót của Thiên Chúa từ bi, như Hội Thánh đã làm trong nghi lễ an táng dành cho các em.” Bởi vì,  Thiên Chúa đã liên kết ơn cứu độ với Bí tích Thánh Tẩy, nhưng chính Người không bị các bí tích ràng buộc  (xem GLCG, 1257). Vì thế, chúng ta hi vọng có một con đường cứu độ dành cho những trẻ em chết mà chưa được rửa tội. Thật vậy, Thiên Chúa giàu lòng thương xót muốn mọi người được cứu rỗi và Chúa Giêsu đã trìu mến các em nên đã nói: “Hãy để trẻ em đến cùng Thầy, đừng ngăn cản chúng.” (Mc 10, 14)

Vấn đề

Để đón nhận phúc Thiên Đàng và Hưởng Kiến mọi người phải được tái sinh nhờ Bí Tích Thánh Tẩy. Nhưng ngay từ buổi đầu, vấn đề đã được nêu lên:  những người không  rửa tội, mà không do lỗi lầm của họ, có được cứu độ không ? Trường hợp cụ thể là những người tân tòng, chưa được rửa tội, nhưng đã phải chịu tử đạo? Do đó, từ rất sớm Giáo Hội đã nhìn nhận có  một hình thức rửa tội khác  nơi các vị tử đạo, đó là rửa tội bằng máu.

Về sau các nhà thần học bắt đầu truy vấn rộng thêm về trường hợp của những người thành tâm thiện chí, những người nỗ lực tìm kiếm Thiên Chúa qua lương tâm tự nhiên, nhưng đã không bao giờ đón nhận được Tin Mừng Cứu Độ. Số phận đời đời của họ ra sao? Đức Tin Công Giáo cho rằng những người này có thể được cứu độ. Niềm tin này được rọi sáng một phần qua Thông điệp  Mystici Corporis Christi  của Đức Piô XII, dạy rằng người ta có thể liên kết với Giáo Hội  inscio quodam desiderio ac voto  (nhờ lòng ước muốn mà không hay biết), thường được gọi là  rửa tội theo lòng muốn.  Công Đồng Vatican II đã trình bày vấn đề này trong Hiến Chế Tín Lí về Giáo Hội, minh định rằng: “Những người vô tình không nhận biết Phúc Am của Chúa Kitô và Giáo Hội Người, nhưng nếu thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa, và dưới tác động của ơn thánh, họ cố gắng chu toàn Thánh Ý Thiên Chúa trong công việc mình theo sự hướng dẫn của lương tâm, thì họ có thể được cứu rỗi.” (LG, 16)

 Lí thuyết về Lâm-bô

Vậy những người thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa, nhưng không được rửa tội, trước tiên phải kể đến những người trong Giao Ước Cũ, những Tiên Tri, những Tổ Phụ, biết bao Tôi Tớ trung thành phục vụ Thiên Chúa như Mô-sê, Đavít, Giô-suê…những người lành thánh... Họ chết đi mà cửa Nước Trời chưa được Chúa Kitô mở ra cho họ, người ta cho rằng nơi họ ở để chờ đợi vào Thiên Đàng là Lâm-bô (do tiếng La tinh  Limbus,  có nghĩa là: bờ, rìa, mép, viền ) – một vị trí giữa Thiên Đàng và Hoả Ngục. Đây gọi là  Limbus patrum  (Lâm-bô của tiền nhân). Chắc chắn quan điểm này là sự nối dài tư tưởng Do thái về  Sheol  (Lc 16, 22 - tt). Trong thần học của các Giáo phụ, đây là nơi Chúa Kitô xuống sau khi chết (1P 3, 18 - 20) và trước lúc phục sinh để “rao giảng cho các vong linh còn đang bị giam cầm”. Thần học Kitô giáo quan niệm về Limbus patrum như thế để khái quát về ơn cứu độ dành cho những người đi trước Chúa Kitô trong lịch sử, đồng thời cho rằng ơn cứu độ duy bởi Chúa Kitô con Thiên Chúa.

Từ quan niệm về Limbo patrum, có tính cách thời gian, các thần học gia đã suy diễn về  Limbus infantium  hay  puerorum  (Lâm–bô dành cho trẻ em), là nơi ở vĩnh viễn cho những trẻ em chết mà chưa được rửa tội, và cho những người chết khi còn mắc tội nguyên tổ nhưng không mắc tội trọng riêng.

 Một số Lập Trường về Lâm-bô

Lí thuyết là lí thuyết, còn Giáo huấn  Giáo Hội  chưa bao giờ chính thức xác định  Lâm- bô là có thật .

- Hai Công Đồng Lyon II năm 1274 và Florence 1439 phán quyết rằng những người chết mà còn mang tội nguyên tổ thì phải sa hoả ngục, nhưng tình trạng của họ khác hẳn với những người chết trong tội riêng (D.S. 858, 1306).

- Các thần học gia Tây phương thời Trung Cổ nghiêng về lập trường của Thánh Augustinô, nhưng mang những nét biến thái khác nhau. Thánh Augustinô, trong khi phi bác chủ trương của nhóm Pêlagiô (354 - 420) về tội nguyên tổ, đã bác bỏ ý niệm về một nơi giữa thiên đàng và hoả ngục (Lâm-bô) và cho rằng những trẻ em chết chưa được rửa tội phải chịu hình phạt đời đời, nhưng hình phạt này là nhẹ nhàng nhất ( Enchiridion  93). Một cách chung, hình phạt mà Thánh Augustinô cho là “nhẹ nhàng nhất” thì các thần học gia của giai đoạn này cho là “nhẹ nhàng hơn”.

- Đối với Abelard thì các trẻ này không được phúc phưởng kiến.

- Còn đối với Thánh Tôma: các trẻ này mất cả ơn thánh sủng và ơn hưởng kiến. Tuy nhiên, ngài cho rằng chúng được hưởng hạnh phúc tự nhiên tuỳ theo những khả năng tinh thần của chúng, chứ không phải hạnh phúc siêu nhiên của ơn hưởng kiến ( De malo  5, 4, ad 4 ).

- Thần học sau thời Cải Cách và thần học hiện đại trình bày những phương thế ngoại Bí tích, nhưng được coi như Bí tích. Chẳng hạn, Rửa tội bằng máu như đối với các hài nhi bị sát hại tại Bê-lem (Mt 2, 16). Lời cầu nguyện và ước muốn của cha mẹ trẻ em được coi như Rửa tội do lòng muốn (Cajetan).

- Vào thế kỉ 19 H. Klee lại đóng góp thêm một ý tưởng rằng trẻ em phải ở một mức độ trí khôn nào đó thì mới có đủ quyết định thuộc về  hoặc  chống Thiên Chúa.

- Còn H. Schell biện luận rằng chính sự đau đớn vào lúc chết cũng được coi như một phương thế ngoại Bí tích giúp đạt phúc thiên đàng.

- Một cách chung, các thần học gia đương đại có khuynh hướng nghiên cứu vấn đề Lâm-bô trong bối cảnh thần học về sự chết. Khi sự chết được coi như chọn lựa sau cùng (P. Glorieux, K. Rahner, L. Boros, G. Lohfink, G. Greshake) thì quan niệm về Lâm-bô trở nên không cần thiết nữa.

- Một số thần học gia khác lại cho rằng ơn cứu độ cho các trẻ em chưa được rửa tội không hệ tại lúc chết, nhưng  sau khi chết  ( M. Laurenge, V. Wilkins). Lúc ấy, chọn lựa của trẻ em là cần thiết và có tính quyết định. Chọn lựa này có thể biểu tỏ ngay sau khi chết hoăc vào Ngày Chung Thẩm. Chủ trương này, như thế xác nhận Lâm-bô hiện hữu cho tới lúc kết thúc lịch sử.

 

 Kết luận

 

 Theo khả năng giới hạn, chúng tôi chỉ có thể trình bày vấn đề một cách khái quát để tìm hiểu một chủ đề thần học vốn khó khăn, nhưng rất bức xúc trong bối cảnh văn hóa hiện nay. Thiết tưởng trong khi suy nghĩ về số phận các thai nhi và các em nhỏ, là nạn nhân của những tội ác con người, hoặc vì một lí do nào đó, chết mà chưa được lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy thì chúng ta hãy tin như Hội Thánh tin: Ơn cứu độ không tự chúng ta đạt được, nhưng do ơn Chúa ban không, và“ Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu độ” (Tm 2, 4). Vậy hãy “ Trao phó các em cho lòng thương xót của Thiên Chúa từ bi ( Infantem autem vestrum potestis Eidem Patri Eiusque misericordiae cum spe committere )”, Người “có một con đường cứu độ riêng dành cho các em” (GLCG, 1261).

 

 

Linh mục Giuse Ngô Quang Trung

 

Text Box: TÌNH YÊU – HÔN NHÂN – GIA ĐÌNH

 

 

 

DIỄN ĐÀN TÌNH YÊU - HÔN NHÂN - GIA ĐÌNH KITÔ GIÁO

ĐÀN ÔNG XÂY NHÀ, ĐÀN BÀ XÂY TỔ ẤM…


 

“Hôn ước mà nhờ đó người nam và người nữ tạo nên một cộng đồng sự sống và tình yêu, 
đã được Đấng Sáng Tạo thiết lập và phú cho những luật riêng.
Tự bản chất, hôn nhân hướng đến thiện ích của đôi vợ chồng, việc sinh sản và giáo dục con cái. Hôn nhân giữa những người đã chịu phép thánh tẩy được Chúa Kitô nâng lên hàng bí tích”.
(Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo số 1660, trang 608 – Tòa TGM TPHCM - 1997)

 

Khi nói về hôn nhân gia đình, trong dân gian ta có câu : “Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm” . Đó là một trong những hình ảnh gần gũi, dễ thương và nhiều ý nghĩa nhất. Đây là một bức họa đẹp và sinh động về khung cảnh hòa hợp hòa điệu trong một gia đình hạnh phúc. Hình ảnh vừa nói lên ý nghĩa sâu xa của sự hợp tác tương ứng và gắn bó giữa hai vợ chồng trong trách nhiệm xây dựng hôn nhân gia đình, lại vừa khơi gợi sự sống sinh động và linh hoạt trong cộng đồng gia đình, trong đó mỗi thành viên đều ra sức tích cực hoạt động vì lợi ích chung…

Thành quả của tình yêu là hôn nhân, thành quả của hôn nhân là mái ấm gia đình và con cái được sinh ra và lớn lên trong đó. Quy luật ngàn đời của xã hội con người là vậy. Engels đã nói : “Tình yêu chân chính là tình yêu dẫn đến hôn nhân”. Còn Polly Adler thì khẳng định : “Một mái nhà cộng với tình yêu thành mái ấm”. Và thi hào người Anh Byron quả quyết : Nếu không có những trái tim yêu thương, thì không có mái ấm gia đình”.

Tình yêu – Hôn nhân – Gia đình, chuỗi ba từ ấy thường luôn đi liền nhau và gợi nên một hình ảnh về một tổng thể cấu trúc có nét đẹp hài hòa, thiêng liêng và đầy ý nghĩa…Cấu trúc ấy đã mặc nhiên cho thấy rằng khi chấp nhận đời sống hôn nhân, người ta phải có mục tiêu cụ thể để hướng tới : xây dựng và phát triển một gia đình hạnh phúc, ấm êm. Mặt khác, cần phải tiếp tục duy trì tình yêu ban đầu để hôn nhân phát triển bền vững lâu dài. Bên cạnh đó, con cái, nhờ ân huệ và thành quả tình yêu ấy, được sinh ra, được giáo dục trưởng thành để trở nên những con người hữu ích.

Ngày nay, người ta nói đến nguy cơ của những bạn trẻ tôn vinh và chấp nhận những thứ hôn nhân “đặc biệt” như : hôn-nhân-không-cam-kết, hôn-nhân-không-mục-đích, hôn-nhân-thử-nghiệm, hôn-nhân-liền-tay, hôn- nhân-tiền-hôn-hậu-thú vv…Tất cả những “mác” hôn nhân ấy đang hấp dẫn nhiều bạn trẻ và đã gây không ít đau đớn, thất vọng cho họ ! Báo chí đã có nhiều phóng sự “buồn thảm” về thực trạng bi kịch của những “mốt” hôn nhân như thế. Bởi vì, như một danh nhân đã nói : “Họ mơ mộng khi yêu nhau và thức tỉnh khi lấy nhau”. 

Có lẽ trong cuộc sống đang có nhiều khủng hoảng và thách thức về những vấn đề hôn nhân gia đình, chúng ta tự thức tỉnh để nhìn lại mục đích, ơn gọi của hôn nhân gia đình là gì và tự hỏi nên làm gì để có thể bảo vệ, củng cố mái ấm càng ngày càng ấm êm hơn.


§ BA NGỌN NẾN LUNG LINH…

Ca sĩ – nhạc sĩ Ngọc Lễ đã viết một bài hát rất dễ thương về gia đình, mà hẳn là nhiều người đã biết đến : “Cha là cây nến vàng, mẹ là cây nến xanh, con là cây nến hồng, ba ngọn nến lung linh, thắp sáng một gia đình”. Hình ảnh thật đẹp, thật diệu vợi ! Cái đẹp huyền diệu và quyến rũ từ ánh sáng lung linh của ba ngọn nến xanh-vàng-hồng : cha-mẹ-con cái. Một bức tranh thật tuyệt vời !…

Hôn nhân là một công trình mà ta phải kiến tạo suốt đời”, Văn hào Pháp A. Maurois đã nói vậy. Công trình hôn nhân, vừa khó khăn vừa lâu dài ấy, được thực hiện không do một người mà là nhiều thành viên trong gia đình. Gia đình trước hết là một cộng đồng. Một cộng đồng cơ bản và làm hạt nhân cho những cộng đồng lớn hơn. Và cộng đồng này trước hết được xây trên nền yêu thương.

Đại văn hào Pháp V. Hugo đã thi vị hóa như sau : “Ngôi nhà được xây bằng gỗ đá, bằng ngói, bằng cột bằng kèo. Gia đình được xây bằng những việc làm yêu thương. Nó sẽ trụ vững một ngàn năm”. Rõ ràng là, để hôn nhân bền vững, để gia đình hạnh phúc bền lâu, người ta phải xây dựng bằng những vật liệu không mối không mọt, đó là chất liệu tinh thần : lòng nhân ái yêu thương đùm bọc và sự chung thủy kiên vững. Gia đình là một kiến trúc xây dựng thuộc về trách nhiệm của mọi thành viên.

·                    ĐIỀU GÌ ĐẸP NHẤT TRẦN GIAN ?!…

Trong số báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật ra ngày 1-9-2002, mục Nghệ Thuật Sống, có bài “Bức tranh tuyệt vời” của tác giả Chung Sa, kể câu truyện về một họa sĩ suốt đời mơ ước vẽ một bức tranh đẹp nhất trần gian. Ông đi gặp ba nhân vật để hỏi ý kiến : vị giáo sĩ, cô gái và người lính. Vị giáo sĩ đề nghị vẽ niềm tin, vì niềm tin nâng cao giá trị con người. Còn cô gái thì muốn vẽ tình yêu, vì tình yêu làm cho cay đắng trở nên ngọt ngào, đem nụ cười cho kẻ khóc than, khiến điều bé nhỏ thành vĩ đại cao thượng, tạo niềm vui cho cuộc sống…Về phần người lính, anh ta gợi ý vẽ hòa bình, bởi hòa bình là điều đẹp nhất trần gian, ở đâu có hòa bình, ở đó có cái đẹp. Ông phân vân tự hỏi : “Làm sao có thể vẽ một lúc cả niềm tin, cả hòa bình và cả tình yêu được ?”… Cuối cùng, khi về nhà mình, ông họa sĩ đã nhận ra niềm tin trong ánh mắt các con, tình yêu trong cái hôn của người vợ; những điều đó làm tâm hồn ông tràn ngập hạnh phúc và bình an. Ông bắt đầu vẽ và hoàn thành tác phẩm mà ông không ngần ngại đặt tên tác phẩm của mình là Gia đình. Lúc này, người họa sĩ đã hiểu điều gì là đẹp nhất trần gian rồi…

Dựa vào câu truyện trên, bài viết do tác giả Chung Sa sưu tầm, đã đưa ra một kết luận : “Thật vậy, gia đình là nơi đầy ắp tiếng cười của trẻ thơ, tiếng hát của người mẹ và sức mạnh của người cha. Nơi đó có hơi ấm của những con tim biết yêu, là ánh sáng của đôi mắt tràn đầy hạnh phúc, là sự ân cần, là lòng chung thủy. Gia đình là ngôi thánh đường đầu tiên cho trẻ thơ học những điều hay lẽ phải, học niềm tin và lý tưởng sống. Đó là : nơi chúng ta tìm về để được ủi an nâng đỡ – nơi những món ăn đơn sơ cũng thành mỹ vị – nơi tiền bạc không quý bằng tình yêu – nơi ngay cả nước sôi cũng reo lên niềm vui hạnh phúc”. 


* XÂY NHƯNG KHÔNG “CẤT” !?

Thật vậy, có gia đình là có tất cả. Người ta thường nói : “Không nơi nào bằng mái ấm gia đình !” (No place like home). Sống trong gia đình êm ấm người ta sẽ cảm nhận như sống trên thiên đường !… Đó là một sự thật.

Nhưng sẽ là bất hạnh nếu người ta phải sống trong một môi trường gia đình bất ổn và thiếu vắng tình yêu. H. de Balzac, nhà văn vĩ đại của Pháp đã nói : “Hôn nhân là con đường dắt ta vào địa ngục hay đưa ta vào thiên đàng”. Vì sao có loại hôn-nhân-địa-ngục ?
Đó là vì người ta xây dựng xong rồi đem “cất đi” tất cả, không khác gì những di tích, kỷ vật cũ kỹ, mốc meo, lạnh tanh giấu kín trong nhà bảo tàng vậy thôi ! Tình yêu trở nên nhạt thếch. Niềm tin biến thành khô cứng. Hy vọng thui chột. Nụ cười tắt lịm. Hạnh phúc chỉ còn là “một chút gì đó xa vắng…để ngàn năm đợi ngàn năm chờ” !…

Tuy nhiên, dù bi kịch thì vẫn có, nhưng người ta có thể vượt qua bằng tình yêu, nghị lực và sự hợp tác chân thành. James Thurber đã nêu ý kiến sau đây : “Trong hôn nhân, gặp nhau là bước đầu, sống chung với nhau là bước kế tiếp, làm việc chung với nhau mới làm nên một gia đình êm ấm”. Nếu có mồ hôi và nước mắt trong hôn nhân thì đó là lẽ thường tình. Đó là mồ hôi của lao động và hi sinh. Đó là nước mắt của cảm thông và thiện chí. Hôn nhân đích thực không bao giờ làm ta rơi vào ảo tưởng của mộng mơ. Nhưng có một điều chắc chắn là : “Trong hôn nhân, nụ cười và nước mắt làm nên khúc nhạc cuộc đời” (David Sarnoff).

Sự hợp tác chân thành và tinh thần trách nhiệm cao trong gia đình sẽ là yếu tố quan trọng giúp duy trì sự bền vững của hôn nhân. Kinh nghiệm dân gian vẫn còn ý nghĩa và giá trị thực tiễn : “Thuận vợ thuận chồng, tát bể Đông cũng cạn”… Sự hoà thuận trong vợ chồng không làm cho đôi bạn mất đi cái “tôi” riêng của mình, trái lại, nó bổ túc, hoàn thiện mỗi con người. Theo các chuyên gia về hôn nhân gia đình thì để có sự hợp tác hiệu quả giữa hai vợ chồng, nên tuân thủ một số nguyên tắc cơ bản sau đây :


1.-Tôn trọng sự khác biệt của nhau (giới tính, cá tính, sở thích…);

2.-Trân trọng những ý kiến cá biệt của nhau ;

3.-Năng bàn bạc, thảo luận các vấn đề hệ trọng trong gia đình ;

4.-Tranh luận trên tinh thần “bình đẳng” và “hai bên cùng có lợi” ;

5.-Hãy nắm vững Nghệ thuật của sự nhượng bộ ;

6.-Hãy biến những “mâu thuẫn, bất đồng” thành sức mạnh ;

7.-Biết nhận ra những điểm mạnh và bỏ qua những điểm yếu của nhau ;

8.-Hãy nhớ kỹ điều này : Phân nửa những vấn đề trong hôn nhân được giải quyết bằng cách giữ im lặng. 

Viễn ảnh về một mái ấm với “ba ngọn nến lung linh” là điều có thực đối với những ai biết khao khát hạnh phúc và sẵn sàng hành động cách tích cực cho tình yêu và vì hạnh phúc gia đình. Và “Bí quyết lớn nhất làm cho cuộc hôn nhân thành công là coi tất cả các tai họa là chuyện nhỏ và không bao giờ biến chuyện nhỏ thành tai họa” (Harold Nichlson). 


§ TỪ MÁI ẤM GIA ĐÌNH ĐẾN CỘNG ĐỒNG XÃ HỘI…

Nếu hôn nhân là hoa quả của tình yêu chân chính thì gia đình là điểm dừng lý tưởng của hôn nhân đúng nghĩa. Câu nói sau đây đã diễn tả ý nghĩa ấy : “Hôn nhân không phải là điểm đến. Nó chỉ là một cuộc hành trình tiến đến một gia đình hạnh phúc, nơi đây tình yêu là điều quan trọng nhất”

Xã hội coi gia đình là tế bào đầu tiên của cộng đồng, là nền tảng của nhân loại. Có gia đình tốt tất có xã hội lành mạnh. Do đó, gia đình có trách nhiệm và bổn phận xây dựng và làm đẹp xã hội. 

Với người tín hữu Kitô giáo, hôn nhân gia đình còn mang nhiều ý nghĩa cao cả hơn nữa. Một vài gợi ý sau đây sẽ giúp chúng ta có cái nhìn rõ nét hơn về gia đình Kitô giáo và những bổn phận của nó.

Thiên Chúa đã thiết lập định chế hôn nhân và trao cho hôn nhân sứ mạng hình thành và phát triển cộng đồng gia đình theo chương trình kế hoạch của Người. Chúa Giêsu cũng đã chúc phúc, thánh hóa hôn nhân và Ngài nâng thực tại ấy lên hàng bí tích. Thánh Phaolô đã mô tả tính cách bí tích của hôn nhân như là sự kết hợp giữa Chúa Kitô (hiền phu) và Hội thánh (hiền thê) (x.Ep 5,21-33).

Gia đình Kitô hữu luôn phải sống và giới thiệu cho thế giới mô hình gia đình theo Tin Mừng Kitô giáo.

Thư Mục Vụ của Hội Đồng Giám Mục VN năm 2002 về chủ đề “Thánh hóa gia đình”, đề mục ‘Gia đình’ số 6, đã nêu rõ : “…Theo ý định của Thiên Chúa, hôn nhân là nền tảng cho một cộng đoàn rộng lớn hơn, tức là gia đình. Nhờ hôn nhân mà đôi bạn trở thành cha mẹ, lãnh nhận nơi Thiên Chúa quà tặng là những người con. Khi cha mẹ yêu thương con cái, họ trở thành dấu chỉ hữu hình của Tình Yêu Thiên Chúa đối với con người. Khi cha mẹ chăm sóc con cái, họ làm thành một cộng đồng hiệp thông những ngôi vị. Chính sự hiệp thông mật thiết trong gia đình Kitô giáo là hình ảnh sự hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa : Yêu nhau và nên một với nhau mà vẫn hoàn toàn tôn trọng sự khác biệt giữa các ngôi vị. Từ ý nghĩa ấy, ngay giữa lòng cuộc sống hôn nhân và gia đình, toàn bộ những tương quan liên vị như tình vợ chồng, tình phụ mẫu, tình con thảo, tình anh em được kết dệt, và nhờ đó, mỗi ngôi vị được dẫn đưa vào trong ‘gia đình nhân loại’ và ‘gia đình Thiên Chúa’ là Hội Thánh (ĐSGĐ, số 15)”. 

Khi các gia đình Kitô hữu “đã phấn đấu trong mọi khó khăn của cuộc sống để gìn giữ nét đẹp gia đình Kitô giáo, theo khuôn mẫu đời sống hiệp thông của Ba Ngôi Thiên Chúa” (Thư Mục Vụ của HĐGM VN năm 2002, phần II , số 7) thì đang trở nên men, muối, ánh sáng cho đời. Họ chẳng những phải hoàn thiện chính bản thân mình mà còn được kêu gọi tỏa gương sáng ra bên ngoài, như ánh sáng lung linh, như hương thơm dịu êm, như hơi ấm nồng nàn…”Một gia đình Kitô hữu thực sự tốt đẹp không thể chỉ đóng kín trong những sinh hoạt riêng tư, nhưng cần mở rộng mối quan hệ với những gia đình chung quanh, để kính trọng yêu thương, trao đổi học hỏi và quan tâm giúp đỡ, góp phần phát triển nền văn minh tình thương”(Thư Mục Vụ của HĐGM VN năm 2002, phần III , số 8).

Xa hơn, rộng hơn, gia đình Kitô giáo có nhiệm vụ làm tông đồ giáo dân. Công Đồng Vaticanô II đã khẳng định : “Từ gia đình, Kitô giáo thấm nhập vào tất cả các tổ chức cuộc sống và dần dần biến đổi các tổ chức ấy; nơi gia đình, vợ chồng tìm thấy ơn gọi riêng của mình là làm chứng cho nhau và cho con cái lòng tin và tình yêu Chúa Kitô. Gia đình Kitô giáo lớn tiếng loan truyền sức mạnh của Nước Thiên Chúa và niềm cậy trông vào một đời sống hạnh phúc. Như thế bằng gương lành và chứng tá, gia đình Kitô giáo thuyết phục thế gian đảm nhận tội lỗi mình, đồng thời sáng soi những kẻ đang tìm kiếm chân lý”(CĐ Vat. II – Hiến chế Tín lý về Giáo Hội – Ch.IV ‘Giáo dân’ – số 35, trang 114 – Bản dịch Việt ngữ Giáo Hoàng Học Viện Piô X Đalat – 1975).

Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II trong Tông huấn về những bổn phận của gia đình Kitô hữu (FC) đã nhắn nhủ : “Gia đình Kitô hữu ngày nay thường đang bị cám dỗ nản lòng hay đang âu lo trước những khó khăn, ngày một lớn ; lòng yêu mến ấy còn được biểu lộ qua một hình thức trổi vượt nữa, đó là đem lại cho gia đình Kitô hữu những lý do để tự tin vào mình, qua những phong phú mà gia đình có được tự bản chất hay do ân sủng, qua sứ mạng Thiên Chúa đã ủy thác cho gia đình. ‘Các gia đình ngày nay phải trấn tỉnh lại ! Phải theo Chúa Kitô’…Ngoài ra, các Kitô hữu còn có bổn phận phải loan báo cách vui tươi và xác tín, ‘Tin Mừng’ về gia đình, vì một cách tuyệt đối, gia đình đang còn và mãi mãi vẫn còn cần nghe và cần hiểu ngày càng sâu sắc hơn, những lời đích thực mặc khải cho gia đình biết chân tính của nó, những tiềm năng và tầm quan trọng sứ mạng gia đình trong xã hội loài người và trong Hội Thánh Thiên Chúa.”(ĐGH Gioan Phaolô II - Tông Huấn FC về những bổn phận của gia đình Kitô hữu – số 86, trang 182 – Roma 2002).

Aug. Trần Cao Khải - Gx TMT Tp HCM

 

Text Box: THẮC MẮC BẠN TRẺ

 

Cùng Nhau Hiểu Sống Và Chia sẻ Lời Chúa

Các bạn thân mến. 

Thời gian vừa qua có nhiều bạn hỏi tôi chia sẻ Tin Mừng là gì và làm thế nào để buổi chia sẻ thu hút mọi người, mang lại nhiều kết quả. Để trả lời chung cho mọi người, tôi xin trình bày vấn đề chia sẻ lời Chúa như sau

 Hiện nay phong trào học hỏi chia sẻ lời Chúa đang phát triển khá mạnh trong nhiều giới giáo dân. Đó là một tín hiệu đáng mừng, tuy nhiên, nhiều nhóm chia sẻ Lời Chúa được hình thành nhưng hiệu quả lại không cao. Nguyên nhân thì có nhiều nhưng một trong những nguyên nhân lớn nhất đó là do : không hiểu mục đích của chia sẻ Lời Chúa, không nắm bắt, hiểu và sống được Lời Chúa. Cho nên, không có gì để chia sẻ mà thay vào đó là cố tìm hiểu ý nghĩa hay cách giải thích mang tính chuyên môn để nói với nhau như một buổi học hỏi Kinh Thánh. Do đó, các buổi chia sẻ không hấp dẫn, khô khan, không hiệu quả đi đến thất bại.

Để cho buổi sinh hoạt chia sẻ Lời Chúa đi đúng với mục đích và có thể mang lại hiệu quả, thiết tưởng chúng ta cần tìm hiểu xem mục đích chia sẻ Lời Chúa là gì.
Một cách đơn giản, chúng ta có thể hiểu buổi chia sẻ Lời Chúa như là một bữa tiệc. Trong đó, Chủ tiệc là Chúa Giêsu; khách dự tiệc là tất cả mọi người; thực đơn là chính đoạn Kinh Thánh được tuyên đọc mà mọi người thưởng thức với mọi hương vị khác nhau, đem ra trao đổi chia sẻ cho nhau.

Như thế, điều quan trọng là mỗi người đã thưởng thức đoạn Kinh Thánh đó như thế nào. Tức là cảm nhận gì khi đọc đoạn Kinh Thánh ấy và đặc biệt là đã sống như thế nào. Từ đó, nói ra cho mọi người cùng cảm nghiệm, cùng thưởng thức. Chính vì thế, chia sẻ Lời Chúa không phải và không bao giờ là giờ chú giải Lời Chúa cả (Điều này dành cho lớp học hỏi Kinh Thánh.). Chia sẻ thì cũng không sợ nói sai vì đó là cảm nhiệm riêng tư, là kinh nghiệm sống hoàn toàn cá nhân. Cũng như cùng ăn một món ăn, nhưng mỗi người sẽ cảm thụ món ăn đó khác nhau : người thì cho là dở người khác lại cho là ngon v.v…

Hiểu mục đích Chia sẻ Lời Chúa như thế, mỗi người cần phải có những thái độ sau :

1. Chia sẻ chân thành những gì mình cảm nghiệm, mình sống. Không tìm những lời hoa mỹ để nói; không tìm cách để phô trương kiến thức làm vinh danh mình. Nhưng làm sao để tôn vinh Chúa và nối kết tình huynh đệ với nhau.

2. Lắng nghe tích cực, hòa tâm hồn mình với mọi người, cùng cảm nghiệm với anh chị em những gì đã được chia sẻ.

3. Chia sẻ trong bầu khí cầu nguyện, đỉnh cao của giờ chia sẻ là những lời nguyện tự phát từ đáy lòng khi cảm nghiệm được Lời Chúa trước những thực tại nhu cầu của nhóm, của cá nhân.
Nếu làm được như thế chúng ta sẽ thấy được lợi ích và hiệu quả của giờ chia sẻ là :
1. Mỗi người sẽ có những chất liệu sống động khi thực thi Lời Chúa.

2. Nhờ việc sống Lời Chúa của anh chị em mình thôi thúc mình sống Lời Chúa.

3. Tạo nên một sự gắn bó mật thiết giữa mọi thành viên.

Để có thể cảm nghiệm và sống Lời Chúa cách dễ dàng, chúng ta cùng tìm hiểu một phương pháp rất dễ ứng dụng, nhưng đòi hỏi nhiều cố gắng của mỗi người. Phương pháp này do Đức Cha Alfred Ancel trình bày.

1. Khung cảnh : thường vào buổi tối, trong một nơi yên tĩnh.

2. Thời hạn : 5 đến 10 phút.

3. Diễn tiến :

- Đọc đoạn Tin Mừng Ngắn (Đoạn được chọn) Đọc đi đọc lại vài lần.

- Cầu nguyện xin Chúa Thánh Thần giúp gặp Chúa Giêsu qua lời vừa phán dạy.

- Chỉ chú ý Chúa Giêsu nói gì và làm gì 

- Kiểm điểm đời sống theo tinh thần Tin Mừng.

+ Đoạn Tin mừng đó cho tôi biết gì về Chúa Giêsu? Chúa dạy tôi điều gì?

+ Qua đoạn Tin Mừng này, Chúa nhắc nhở tôi phải thi hành bổn phận nào đối với Chúa; bổ phận nào đối với người khác và bổn phận nào đối với chính mình?

4. Lượng giá phương pháp.

- Hiệu nghiệm để biết Chúa Giêsu là ai và sứ điệp của Ngài là gì?

- Mục đích chỉ nhắm gặp được chính Chúa, nên không cần chú giải Thánh Kinh như những nhà thần học. Cao điểm gặp gỡ là cầu nguyện, trực tiếp nói với Chúa.

- Việc tìm bài học áp dụng không nên đăït nặng. Cần lắng nghe tiếng Chúa.
Sau khi đã gặp gỡ được Lời Chúa chúng ta cùng mang ra trao đổi chia sẻ cho nhau. Khi đó chúng ta sẽ thấy được sự phong phú của Lời Chúa nhờ cảm nghiệm của mỗi người mỗi khác nhau. Điều đó tăng sự hấp dẫn cho giờ chia sẻ Lời Chúa của chúng ta.
Chúc các bạn thành công và mỗi ngày mỗi yêu mến Lời Chúa hơn.

Text Box: ĐỌC SÁCH 
Lm. Dzu Mai Liên

 

 

GIỌT NƯỚC  MẮT HỒNG

Lm. Đỗ Văn Thiêm

Khe hở

Tôi về thăm quê, sau nhiều năm xa cách. Quê tôi là một làng toàn tòng người Công Giáo.Trong một làng toàn tòng như thế, thì vị trí của linh mục chánh xứ rất lớn.

Vì thế, khi vừa về đến nhà, mẹ tôi đã bảo. Tắm rửa xong, con lên thăm cha xứ một lát. Thi thoảng cha cũng hỏi thăm đến con đấy. Mẹ nói cho con biết : Cha này khó tính lắm, nói chuyện con phải để ý đấy nhé.

Bước lên bậc tam cấp của nhà xứ, tôi nhìn lên phía trên cánh cửa gỗ. Có nốt tròn, tôi bấm chuông. Một tiếng nói trầm trầm từ phía trong vọng ra : Mời vào.

Tôi vặn ổ khóa, đầy cửa bước  vào. Trước mặt tôi là một cha già đáng kính, ăn mặc đơn sơ, nhưng tươm tất.

Cha hỏi thăm tôi về công việc làm ăn, và tình cảnh của bà con nơi tôi sinh sống, cũng như đời sống đức tin của bà con ở đấy. Còn tôi, hỏi thăm ngài về sức khoẻ, về tình hình, và sinh hoạt của xứ đạo.

Qua câu chuyện trao đổi, tôi thấy đàng sau cái vẻ cứng ngắc, và nghiêm nghị ấy, là một mối lo về sự băng hoại đức tin của giới trẻ ngày nay. Lo lắng quá, cho nên cha cố giữ chặt nguyên tắc, sợ rằng, mình buông thả quá, nhiều người sẽ vì thế mà trôi luôn đi, đạo đức sẽ xuống dốc.

Tôi chào cha ra về, vừa đi vừa chợt nghĩ. Trong đời chẳng có ai là khó quá đâu. Có khó tính đi mấy đi nữa, thế nào cũng có một số người thương mến, và được thương mến lại.

Như thế có nghĩa là :

Trái tim ai cũng có khe hở. bảo người ấy là khó tính là không đúng, mà phải  bảo là tại mình dở, chưa biết cái khe hở trái tim của người ấy để lách vào.

Những người thương mến, và được người ấy thương mến, là người ấy đã lách đúng được vào cái khe hở trái tim ấy.

Yếu đuối

Tôi nhận được lá thư của một người bạn, đã 17, 18 năm chưa một lần liên hệ thư từ.

Tôi cũng đã yên phận, còn người con gái ấy cũng đã có gia đình, yên bề gia thất. Nàng cùng chồng đã định cư ở nước ngoài.

Không hiểu sao, hôm nay, nàng lại viết thư cho tôi. Trong thư này, còn có một điều đặc biệt hơn nữa; ở nước ngoài, hầu hết các công việc thuộc giấy tờ, người ta thường dùng vi tính. Thư từ cũng thường là Email, hay khá hơn, nếu người kia không có vi tính  để gởi tới thì người ta cũng vào vi tính để đánh thư, in ra,  sau đó gởi đi. Đàng này, nàng lại chịu khó viết thư, 4 trang giấy hẳn hoi.

Trong thư, hỏi thăm tôi về nhiều chuyện. Đặc biệt là nhắc đến những kỉ niệm xanh sạch thời sinh viên, cả bọn ăn kem, đi picnic. Nàng nói cho tôi biết, điều mà trước đây tôi chưa biết, là lúc ấy, nàng phục tôi lắm. Trong đôi mắt nàng lúc ấy, tôi thật đáng ca tụng, thật đáng yêu.

Tôi nằm đu đưa trên võng mà say sưa hạnh phúc. Vừa đọc thư, vừa cười, vừa phở lở cõi lòng. Đọc đi, rồi đọc lại, 3, 4 lần.

Bỗng tiếng con Thạch Sùng chép miệng, làm tôi giật mình. Bỏ lá thư xuống ngực, tôi chợt nghĩ.

Ô hay thật, sao mình hạnh phúc thế, mình hạnh phúc vì điều gì thế. ? Vì tình cảm đúng ra là như vậy, nhưng có trông thấy tình cảm đâu. Mình hạnh phúc vì mấy dòng chữ. Quả thực phận người là yếu đuối. Mấy dòng chữ bằng mực xanh rộn rã, sướng vui.

Nếu không phải là những lời khen, mà ngược lại, lại là những lời chê bai chế giễu. Có lẽ mình sẽ buồn lắm. Quả thực là quá yếu đuối phải không ? Mình buồn, và đau khổ, chỉ vì vài nét viết, chỉ vài dòng chữ.

Thân phận kiếp người, qủa thực qúa mỏng dòn và yếu đuối.

 

 

   

 

 

Text Box:  Để xem các bài viết khác  mời quý vị vào trang Nhà (website)  http://www.tinvui.org hoặc www.tinvuivn.net
mọi Thư từ,  bài vở cộng tác và ý kiến, xin gửi về 
bantreconggiao@yahoo.com
Xin chân thành cám ơn